Ngày 12/8, Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức 'Hội nghị thúc đẩy xuất khẩu nông lâm thủy sản năm 2025' tại Trung tâm Hội nghị 272 (TP. Hồ Chí Minh).
Chương trình dự kiến của Hội nghị gồm các báo cáo, tham luận về cơ hội, thách thức từ các thị trường Hoa Kỳ, EU, Trung Quốc, UAE; kế hoạch tiêu thụ sản phẩm chủ lực tại các địa phương và thảo luận, góp ý từ các hiệp hội, doanh nghiệp.
Hội nghị do Quyền Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng và Thứ trưởng Trần Thanh Nam chủ trì, với sự tham dự của lãnh đạo nhiều bộ, ngành, hiệp hội và doanh nghiệp xuất khẩu.
Bằng mọi biện pháp đạt tăng trưởng ngành trên 4%
Kết luận Hội nghị, Quyền Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng nhấn mạnh: Nhìn lại thời gian qua, dù đối diện với nhiều biến động phức tạp của khu vực và thế giới, chúng ta vẫn đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Hoạt động xuất nhập khẩu nông, lâm, thủy sản tiếp tục giữ vai trò trụ cột, đạt nhiều kết quả toàn diện.

Quyền Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng phát biểu kết luận "Hội nghị thúc đẩy xuất khẩu nông lâm thủy sản năm 2025".
Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã thống nhất quyết tâm bằng mọi biện pháp đạt tăng trưởng ngành trên 4%, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt trên 65 tỷ USD, phấn đấu 70 tỷ USD trong năm 2025. "Qua phân tích, đánh giá, chúng tôi tin rằng mục tiêu này hoàn toàn khả thi khi có sự vào cuộc đồng bộ của các cơ quan nhà nước, hiệp hội ngành hàng và cộng đồng doanh nghiệp", Quyền Bộ trưởng Trần Đức Thắng nói.
Ông cũng bày tỏ sự đồng tình với ý kiến của Thứ trưởng Nguyễn Minh Hằng và Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) Nguyễn Anh Sơn về việc ba Bộ phối hợp chặt chẽ tổ chức các hội nghị xúc tiến thương mại hiệu quả, tránh trùng lặp, mang lại lợi ích tối đa cho doanh nghiệp. Tất cả kiến nghị, đề xuất của các đại biểu, Bộ sẽ tiếp thu, ghi nhận vào thông báo kết luận và triển khai thực hiện.
Về một số nội dung cụ thể, trong đó có kiến nghị của Ngân hàng Nhà nước về hỗ trợ thanh toán với các thị trường mới, đặc biệt là Châu Phi, Quyền Bộ trưởng Trần Đức Thắng cho rằng, việc này cần được quan tâm giải quyết.
Theo ông Thắng, chúng ta đã nhận diện rõ khó khăn, vướng mắc, đồng thời xác định đây là giai đoạn vừa có thách thức, vừa có cơ hội. Với sự vào cuộc của tất cả các bên, đẩy mạnh xuất khẩu hoàn toàn khả thi, bởi dư địa vẫn còn rất lớn. Để tạo đà cho giai đoạn 2026 - 2030, đất nước cần duy trì tăng trưởng hai con số. Năm 2025 dự kiến tăng 8,3 - 8,5%; từ 2026 phải đạt mức tăng trưởng gấp rưỡi. Điều này đòi hỏi xuất khẩu phải hướng tới 80, 90, thậm chí 100 tỷ USD.
Câu hỏi đặt ra là: giá trị tăng thêm đó đến từ đâu? Đây là điều các hiệp hội và doanh nghiệp cần cùng phân tích, đề xuất giải pháp. Ba định hướng lớn cần triển khai: Cơ quan nhà nước, trực tiếp là Bộ Nông nghiệp và Môi trường, chịu trách nhiệm xây dựng hệ thống văn bản pháp luật phù hợp, cải cách hành chính, cắt giảm thủ tục nhưng vẫn đáp ứng yêu cầu nước nhập khẩu.
Tháng 10 tới, Bộ sẽ trình Quốc hội dự luật sửa 15 luật; từ năm 2026, sẽ sửa đổi toàn diện 17 văn bản pháp luật để thích ứng tình hình mới. Giải đáp, hướng dẫn kịp thời những khó khăn của doanh nghiệp, người dân, hiệp hội ngành hàng; hoàn thiện tiêu chuẩn, quy chuẩn và vùng nguyên liệu.
Quyền Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường nhấn mạnh, doanh nghiệp và hiệp hội ngành hàng là lực lượng trực tiếp sản xuất, cần chủ động đề xuất hỗ trợ từ Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Bộ Ngoại giao, Bộ Công Thương hoặc các địa phương khi cần thiết.

Về thị trường, cần chú trọng cả truyền thống và tiềm năng như: châu Âu (2% thị phần), UAE và khu vực lân cận (200 tỷ USD, Việt Nam mới chiếm 10%), châu Phi, Nam Mỹ… Thị trường nội địa với hơn 100 triệu dân cũng cần được khai thác hiệu quả, thay thế nhập khẩu đối với sản phẩm có thể sản xuất trong nước.
"Hiện mỗi năm chúng ta xuất khẩu gần 100 triệu tấn nông, lâm, thủy sản, nhưng giá trị gia tăng còn hạn chế do phụ thuộc đầu vào từ nước ngoài. Nếu doanh nghiệp Việt Nam làm chủ được các khâu này, giá thành sẽ giảm, chất lượng tăng. Tôi đề nghị Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường xây dựng bản tin định kỳ cập nhật số liệu sản xuất, nhập khẩu, xuất khẩu; tình hình thị trường trong nước và quốc tế; phân tích thị trường tiềm năng; cùng các thông tin chính thống từ cơ quan liên quan để doanh nghiệp và người dân tham khảo, định hướng sản xuất hiệu quả", ông Thắng nói.
Về vấn đề thuế quan của Hoa Kỳ: Từ tháng 4/2025, khi tình huống phát sinh, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ và các bộ, ngành đã vào cuộc quyết liệt. Bộ Công Thương, Bộ Ngoại giao và các cơ quan chức năng của Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã phối hợp hiệu quả. Hiện, chúng ta đang ở giai đoạn cuối của quá trình xử lý, song vẫn tiếp tục đàm phán để đạt kết quả cuối cùng.
Đây là vấn đề khó đoán định, nhưng cũng mở ra cơ hội: Việc áp thuế này không chỉ với Việt Nam mà với tất cả các quốc gia xuất khẩu vào Mỹ, chênh lệch không quá lớn. Mỹ vẫn có nhu cầu cao với một số sản phẩm Việt Nam không thể thay thế, như tôm hay cà phê - vốn được đánh giá đứng đầu thế giới về chất lượng, đặc biệt khi chế biến sâu.
Ông nhận định, dù quyền áp thuế thuộc phía Hoa Kỳ, chúng ta cần chủ động giải pháp ứng phó. Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ tiếp thu các đề xuất xác đáng của doanh nghiệp, phối hợp cùng Bộ Công Thương, Bộ Ngoại giao và các cơ quan liên quan để xử lý.
"Với sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, sự vào cuộc của các Bộ, ngành, địa phương, ngành hàng và cộng đồng doanh nghiệp, chúng ta nhất định sẽ đạt và vượt mục tiêu xuất khẩu, góp phần thực hiện thành công kế hoạch phát triển ngành trong năm 2025 và các năm tiếp theo", Quyền Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường bày tỏ sự tin tưởng.
Thích ứng với chính sách thuế quan của Hoa Kỳ
Bà Nguyễn Minh Hằng, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, nhất trí với nhận định của Bộ Nông nghiệp và Môi trường rằng từ nay đến cuối năm, hoạt động xuất khẩu nông lâm thủy sản sẽ còn nhiều thách thức. Trong bối cảnh các nước đều đẩy mạnh đa dạng hóa chuỗi cung ứng, nguồn cung và đầu vào, đây vừa là cơ hội vừa là thách thức, đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu, đánh giá kỹ lưỡng để có giải pháp phù hợp.
Bà lưu ý, giá lương thực trong thời gian vừa qua có xu hướng tăng, nhưng riêng giá gạo giảm và dự kiến tiếp tục giảm trong 1 - 2 năm tới. Nhiều quốc gia có thể áp dụng chính sách hạn chế xuất khẩu hoặc áp hạn ngạch đột ngột khiến thị trường biến động khó lường. Thêm vào đó sẽ là những khó khăn do tác động từ chính sách thuế đối ứng của Hoa Kỳ. Thứ trưởng Nguyễn Minh Hằng đưa ra một số định hướng trọng tâm cần xem xét trong thời gian tới.

Bà Nguyễn Minh Hằng, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao.
Một là, duy trì đà tăng trưởng ở các thị trường lớn và đa dạng hóa thị trường; đồng thời khai thác tốt hơn dư địa tại thị trường EU. Các bộ, ngành cần phối hợp chặt chẽ hơn để hoàn thiện cơ sở pháp lý cho thương mại nông sản. Thiết lập khuôn khổ hợp tác chiến lược trong lĩnh vực nông nghiệp. Tháo gỡ vướng mắc cho từng ngành hàng.
Hai là, thích ứng với chính sách thuế quan của Hoa Kỳ. Bộ Nông nghiệp và Môi trường nên cân nhắc về việc có báo cáo với Chính phủ về những tác động đối với từng ngành hàng trong lĩnh vực nông nghiệp, đồng thời kiến nghị các biện pháp ứng phó phù hợp.
Ba là, đẩy mạnh xúc tiến và quảng bá các thị trường mới, đặc biệt gắn với các hoạt động cấp cao. Cần sự phối hợp chặt chẽ hơn giữa ba bộ: Bộ Ngoại giao, Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, mang tính chất liên ngành hơn...
'Có đi có lại' trong đàm phán thương mại thì mới hiệu quả
Ông Nguyễn Anh Sơn, Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho biết: Bộ Công Thương đã làm và sẽ làm tiếp các công tác kiểm soát chống buôn lậu, gian lận thương mại, xuất xứ hàng hóa, đặc biệt trong bối cảnh Hoa Kỳ áp thuế đối ứng 20%.
Bộ Công Thương sẽ tăng cường các biện pháp phòng vệ thương mại, có riêng 1 Cục Phòng vệ thương mại, phối hợp với các bộ ngành tận dụng thế mạnh của Việt Nam; cơ chế đáp trả để phòng vệ thương mại, chống bán phá giá.

Ông Nguyễn Anh Sơn, Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương.
Bộ đang tiếp tục phối hợp đàm phán, mở cửa các thị trường mới (thị trường Vùng vịnh, thị trường Halal; Ai Cập…), phối hợp với Bộ Ngoại giao để sớm xúc tiến thương mại đối với các thị trường này. Mới đây, Cục Xuất nhập khẩu đã sang Singapore đàm phán về việc xuất khẩu gạo vào thị trường này.
Ông Sơn đánh giá, từ trước tới nay, hai Bộ Công Thương - Nông nghiệp và Môi trường đã phối hợp tổ chức nhiều hội chợ thương mại rất thành công, như Hội chợ Hoa quả tại Bắc Kinh (Trung Quốc); hằng tháng tổ chức các hội nghị xúc tiến thương mại với các tham tán đại diện tại các nước.
Là đầu mối đàm phán với các quốc gia trên thế giới về các vấn đề thương mại tự do, Cục Xuất Nhập khẩu đang được giao nghiên cứu 2 đề án, đó là “Đa dạng hóa các nguồn cung nguyên liệu nhập khẩu” và Đề án “Tận dụng các hiệp định thương mại tư do khi Hoa Kỳ áp thuế đối ứng”.

Khi hoàn thành 2 Đề án này, Cục sẽ có những đề xuất thiết thực tới các cộng đồng doanh nghiệp. Theo Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, khi có thông tin Philipines sẽ ngừng nhập khẩu gạo trong 60 ngày, Bộ Công thương đã có báo cáo tới Chính phủ, đề nghị với các Bộ ban ngành thông qua con đường ngoại giao để tháo nút thắt vấn đề này.
Ông Sơn cho rằng, trong đàm phán thương mại, “ông cho chân giò bà thò chai rượu” thì mới có hiệu quả. Đó là mối quan hệ có đi có lại. Khi đi đàm phán, ta cũng cần có những ngành hàng nào đó để tiến hoặc lùi chứ không thể tất cả cùng tiến, sẽ khó khăn cho việc đàm phán.
Đề nghị phía Trung Quốc cập nhật thông tin địa danh, địa chỉ sản phẩm của Việt Nam
Theo ông Nguyễn Hoàng Phúc, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Lâm Đồng, từ đầu năm đến nay, tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh đạt trên 600 triệu USD, trong đó, cà phê 115 triệu USD, sầu riêng khoảng 198 triệu USD, thanh long ước trên 220 triệu USD.
Với sầu riêng, sản phẩm chủ yếu xuất khẩu dạng quả tươi, thị trường chính là Trung Quốc, ngoài ra còn có Hoa Kỳ, Nhật Bản, Pháp, Canada. Thanh long cũng chủ yếu xuất khẩu tươi, chiếm 80% sản lượng toàn tỉnh, với thị trường tiêu thụ chính là Trung Quốc.

Ông Nguyễn Hoàng Phúc, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Lâm Đồng.
Ngành hàng thanh long dù được quan tâm hỗ trợ nhưng vẫn sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, sản lượng chưa đồng đều, sức cạnh tranh còn hạn chế. Công nghệ bảo quản sau thu hoạch chưa đáp ứng yêu cầu; tiêu thụ phụ thuộc lớn vào thị trường Trung Quốc; giá cả bấp bênh.
Toàn tỉnh chưa có cơ sở chế biến quy mô công nghiệp, công nghệ chế biến còn lạc hậu. Với sầu riêng, Lâm Đồng hiện có khoảng 43.000 ha trồng, thời gian thu hoạch trải đều trong năm, tạo lợi thế về cung ứng. Tuy nhiên, việc quản lý mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói chưa chặt chẽ; khâu kiểm soát an toàn thực phẩm, đặc biệt là kim loại nặng như cadimi, chì, còn bất cập...
Tuy nhiên, để phát huy hết tiềm năng, lợi thế của tỉnh, Lâm Đồng đề nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường tiếp tục hướng dẫn thủ tục hành chính trong phân cấp, phân quyền; hỗ trợ đàm phán với Trung Quốc để cấp mã số vùng trồng, cơ sở đóng gói cho sầu riêng và thanh long. Diện tích trồng bơ của tỉnh hiện lớn, sản lượng gần 100.000 tấn/năm, tiêu thụ chủ yếu nội địa. Đề nghị Bộ hỗ trợ đàm phán để trái bơ được xuất khẩu chính ngạch.

Bên cạnh đó, ông Nguyễn Hoàng Phúc cũng đề nghị Cục Bảo vệ thực vật hỗ trợ đàm phán với Hoa Kỳ bổ sung biện pháp xử lý nhiệt đối với trái cây xuất khẩu; đồng thời nghiên cứu, khảo nghiệm, ban hành danh mục chế phẩm, hóa chất bảo quản sầu riêng xuất khẩu được phép sử dụng.
Trao đổi thêm với Lâm Đồng, Thứ trưởng Trần Thanh Nam cho biết, với các kiến nghị đàm phán với Trung Quốc, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã có những chương trình, giải pháp cụ thể để nước bạn hỗ trợ Việt Nam, đặc biệt là hiện nay chúng ta triển khai chính quyền mô hình hai cấp, nhiều địa danh cũng đã thay đổi, chúng ta đã đề nghị phía Trung Quốc cập nhật các thông tin về tên địa danh, địa chỉ đối với các sản phẩm của Việt Nam
Chương trình "Siêu vùng nguyên liệu" giúp gạo Việt vươn xa
Ông Bùi Bá Bổng, Chủ tịch Hiệp hội Ngành hàng Lúa gạo Việt Nam (VIETRISA), nhấn mạnh: Nói đến xuất khẩu thì cốt lõi vẫn là sản xuất, mà nền tảng chính là vùng nguyên liệu. Việt Nam có lợi thế lớn với nền tảng sản xuất lúa gạo hàng đầu Đông Nam Á, tiệm cận trình độ thế giới và đã đạt nhiều bước tiến vượt bậc.
Chương trình “siêu vùng nguyên liệu” - 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp ở Đồng bằng sông Cửu Long đang được triển khai hiệu quả. Để tiếp cận thị trường xuất khẩu, vùng nguyên liệu phải bảo đảm chất lượng cao và giá thành sản xuất thấp nhằm mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp và người dân.

Ông Bùi Bá Bổng, Chủ tịch Hiệp hội Ngành hàng Lúa gạo Việt Nam (VIETRISA).
Mô hình 1 triệu ha có thể mở rộng ra các vùng khác, vừa giữ vững an ninh lương thực quốc gia, vừa nâng cao năng lực xuất khẩu. Theo ông Bổng, vùng sản xuất theo quy trình này sẽ gắn với nhãn hiệu “Gạo Việt xanh - Phát thải thấp”. Việt Nam đã xuất khẩu lô hàng đầu tiên mang nhãn hiệu này sang Nhật Bản.
Tuy nhiên, doanh nghiệp khó có thể tự xây dựng vùng nguyên liệu; nhiệm vụ này cần sự tham gia của nông dân liên kết thông qua HTX, chính quyền địa phương và hệ thống khuyến nông địa phương. Đây chính là mấu chốt để hình thành vùng nguyên liệu bền vững.
Ông kiến nghị, tiếp tục tổ chức Festival Lúa gạo Quốc tế lần thứ 2 vào năm 2026, sau thành công của lần thứ nhất năm 2023. Festival cần được nâng tầm thành sự kiện giao thương quốc tế, nơi ký kết hợp đồng thương mại và để nông dân học hỏi mô hình sản xuất tiên tiến.
Mở rộng thị trường xuất khẩu gạo sang Nhật Bản, Hàn Quốc và châu Phi
Ông Đỗ Hà Nam, Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam cho biết, trong 7 tháng đầu năm, xuất khẩu gạo Việt Nam đạt 5,5 triệu tấn, kim ngạch đạt 2,8 tỷ USD. Trong bối cảnh nhiều quốc gia xuất khẩu gạo sụt giảm, Việt Nam vẫn tăng sản lượng 3,1% dù giá giảm 19%.
Dự kiến cả năm 2025, Việt Nam sẽ đạt khoảng 8,8 triệu tấn, giữ vững vị trí quốc gia xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới - thành tích được Thái Lan đặc biệt ngưỡng mộ khi nước này giảm tới 30% sản lượng xuất khẩu.

Gạo Việt Nam hiện đã xây dựng được thương hiệu riêng, được nhiều thị trường ưa chuộng, cung không đủ cầu. Giá xuất khẩu bình quân đạt 514 USD/tấn, cho thấy bước tiến tích cực. Ông Nam đề nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường cùng các cơ quan liên quan quan tâm, hỗ trợ để tận dụng tốt cơ hội này, đồng thời mở rộng thị trường sang Nhật Bản, Hàn Quốc và châu Phi.
Hiện doanh nghiệp trong nước đang đẩy mạnh xuất khẩu sang châu Phi - thị trường tiềm năng nhưng thanh toán chậm và rủi ro cao. Về lâu dài, cần phát triển giống gạo chất lượng cao và xây dựng vùng chuyên canh. Đặc biệt, gạo ST25 được kiều bào trên thế giới đánh giá rất ngon, thể hiện “tình yêu đi qua dạ dày” và góp phần nâng cao hình ảnh quốc gia.
Ông Nam cũng nêu khó khăn về thuế VAT đối với gạo và đề nghị các bộ, ngành sớm có giải pháp tháo gỡ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp xuất khẩu thuận lợi hơn.
Đề xuất miễn thuế VAT với sản phẩm cà phê nhân xanh
Theo ông Nguyễn Nam Hải - Chủ tịch Hiệp hội Cà phê Ca cao, niên vụ cà phê 2024 - 2025 có giá cao nhất từ trước tới nay, có thời điểm lên tới 5.850 USD/tấn. 7 tháng đầu năm, Việt Nam xuất khẩu 1,1 triệu tấn cà phê, tăng 66% so cùng kỳ.

Ông Nguyễn Nam Hải, Chủ tịch Hiệp hội Cà phê - Ca cao Việt Nam.
Châu Âu vẫn là thị trường xuất khẩu cà phê lớn nhất, đạt 670.000 tấn, kim ngạch đạt 3,6 tỷ USD. Châu Mỹ khoảng 4,7%; châu Á 20,7%. Trước tình hình Hoa Kỳ áp thuế cao 20% sẽ đặt ra nhièu thách thức so với các nước cùng sản xuất cà phê, tuy nhiên cũng là cơ hội để các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu trong các tháng cuối năm.
Các doanh nghiệp sản xuất cà phê đang mở rộng thị trường Trung Quốc bởi đây là thị trường tiềm năng. Cà phê nhân xuất khẩu sang Trung Quốc chưa cao. Mới đây, Trung Quốc đã cấp phép cho 183 doanh nghiệp cà phê của Brazil được xuất khẩu vào thị trường này. Điều này cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam cần sớm tiếp cận thị trường Trung Quốc.

Cà phê Việt Nam chủ yếu xuất khẩu, cà phê nội địa trong nước tiêu thụ chỉ dừng ở mức 15%. Các các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê chịu áp lực lớn vế vốn kinh doanh; chịu áp lực về thuế trong nước, không được ngân hàng cho vay. Theo dự báo, 6 tháng cuối năm 2025 ngành cà phê sẽ xuất khẩu 1,5 triệu tấn.
Hiệp hội ước tính, với dự báo xuất khẩu 1,5 triệu tấn, kim ngạch 7,5 tỷ USD trong năm 2025, số tiền VAT 5% nộp trước tương đương khoảng 370 triệu USD (hơn 10.000 tỷ đồng). Do đó, kiến nghị Bộ Tài chính đề xuất đưa cà phê nhân xanh vào nhóm không chịu VAT, giúp giảm gánh nặng vốn cho doanh nghiệp.
Xuất khẩu thủy sản: Bức tranh "vừa thách thức vừa kỳ vọng"
Bà Tô Thị Tường Lan, Phó Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), cho biết, trong 7 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu thủy sản đạt 6,22 tỷ USD, tăng 17,2% so với cùng kỳ năm 2024.
Tuy nhiên, nếu chính sách thuế đối ứng mới của Mỹ được áp dụng, cá tra cũng sẽ chịu tác động đáng kể về chi phí và giá thành trong bối cảnh thị trường Trung Quốc chững lại do tồn kho cao, doanh nghiệp buộc phải mở rộng xuất khẩu sang ASEAN, Nam Mỹ và Trung Đông.

Bà Tô Thị Tường Lan, Phó Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu Thủy sản VN (VASEP).
Riêng cá ngừ, xuất khẩu 7 tháng giảm 2,8% xuống còn 542 triệu USD; riêng tháng 7 giảm gần 19%. Nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ quy định bất cập tại Nghị định 37, như cấm trộn nguyên liệu khai thác trong nước với nhập khẩu và yêu cầu kích thước tối thiểu 0,5m đối với cá ngừ vằn.
Điều này khiến ngư dân e ngại khai thác, doanh nghiệp thiếu nguyên liệu chế biến, không tận dụng được hạn ngạch 11.500 tấn sang EU theo EVFTA. Ngoài ra, cá ngừ Việt Nam còn chịu thuế đối ứng cao hơn so với Ecuador, Philippines và Indonesia, làm giảm sức cạnh tranh.
Bà Lan dự báo, những tháng cuối năm, bức tranh xuất khẩu thủy sản Việt Nam được dự báo sẽ “vừa thách thức vừa kỳ vọng”.
Tuy nhiên, cơ hội vẫn rộng mở. Sự hồi phục mạnh mẽ của thị trường Trung Quốc, ASEAN và Nhật Bản, cùng với tín hiệu gỡ bỏ rào cản kỹ thuật từ EU, mở ra dư địa tăng trưởng cho các dòng sản phẩm chế biến sâu.

Các hiệp định thương mại như EVFTA, CPTPP, UKVFTA tiếp tục tạo lợi thế thuế quan vượt trội so với các nước đối thủ. Dự báo cả năm 2025, xuất khẩu thủy sản có thể đạt khoảng 9 - 9,5 tỷ USD, kỳ vọng đạt mục tiêu 10 tỷ USD. Trong đó, tôm kỳ vọng 3,6 - 3,8 tỷ USD, cá tra 2 tỷ USD, cá ngừ khoảng 850 - 900 triệu USD và các hải sản khác đóng góp gần 3 tỷ USD.
Thị trường xuất khẩu rau quả vào Hoa Kỳ tăng trưởng nhanh nhất
Ông Nguyễn Thanh Bình, Chủ tịch Hiệp hội Rau quả Việt Nam đánh giá: Hoa Kỳ là thị trường có nhu cầu rất lớn, phong phú, đa dạng về các sản phẩm nông sản nhiệt đới trong đó có trái cây. 6 tháng đầu năm 2025 kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam vào Hoa Kỳ đạt hơn 261,6 triệu USD, tăng 66% so với cùng kỳ 2024.
Tỷ trọng của thị trường này lên 8,42%, là một trong những thị trường có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất về xuất khẩu rau quả của Việt Nam. Hoa Kỳ là thị trường đặc biệt có yêu cầu cao, nghiêm ngặt về các tiêu chuẩn chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm, bao bì, nhãn mác, sở hữu trí tuệ, trách nhiệm xã hội và bảo vệ môi trường.

Ông Nguyễn Thanh Bình, Chủ tịch Hiệp hội Rau quả Việt Nam.
Những yêu cầu khắt khe này đòi hỏi các nước xuất khẩu rau quả vào Hoa Kỳ như Việt Nam phải tổ chức sản xuất theo các quy trình, quy phạm pháp luật chặt chẽ, ứng dụng khoa học và công nghệ hiện đại để nâng cao chất lượng và an toàn của sản phẩm đồng thời đảm bảo việc truy xuất nguồn gốc nhanh chóng, thuận tiện.
Hoa Kỳ là thị trường lớn, hấp dẫn, đầy tiềm năng đối với rau quả Việt Nam, tuy nhiên hiện tại phần lớn trái cây Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ vẫn chủ yếu phục vụ cho cộng đồng người Việt và người gốc Á tại Mỹ. Người tiêu dùng Mỹ rất quan tâm tới sản phẩm chế biến có lợi cho sức khỏe, đặc biệt là từ sau đại dịch Covid, người Mỹ thích sự tiện dụng, tiết kiệm thời gian trong sinh hoạt.
Họ thích các sản chế biến đa dạng về mẫu mã, bao bì bắt mắt, đây cũng là cơ hội thị trường rất lớn cho rau quả chế biến của của Việt Nam vì xuất khẩu rau quả chế biến sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí vận chuyển, giảm tỷ lệ hư hỏng, kéo dài thời gian bảo quản, gia tăng giá trị.
Tuy vậy, thách thức mức thuế 20% áp cho rau quả Việt Nam xuất sang Mỹ là mức khá cao, làm tăng giá rau quả nhập khẩu của Việt Nam vào Mỹ. Với mức thuế trên người tiêu dùng Mỹ có thể sẽ phải cắt giảm bớt chi tiêu cho mặt hàng này dẫn đến các đơn hàng có thể giảm mạnh.

Rau quả của Việt Nam cũng có thể bị giảm khả năng cạnh tranh so với rau quả sản xuất tại các tiểu bang của Mỹ, Mexico, các nước Nam Mỹ có điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu tương tự Việt Nam nhưng gần Mỹ hơn, chi phí vận chuyển thấp hơn Việt Nam và kể cả cạnh tranh với các nước như Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Cambodia… có mức thuế thấp hơn Việt Nam.
Do đó, Chủ tịch Hiệp hội Rau quả Việt Nam đề xuất các giải pháp tháo gỡ, trong đó có việc đàm phán chi tiết để đưa thuế các mặt hàng rau quả bằng 0%, vì đây là những mặt hàng 100% do Việt Nam tự sản xuất và trong quan hệ thương mại rau quả Việt - Mỹ, Việt Nam đang nhập siêu rau quả từ Mỹ (560/360 triệu USD năm 2024).
Bên cạnh đó, cần tăng nhập khẩu trái cây từ Mỹ (hầu hết mặt hàng nhập từ Mỹ đều không cạnh tranh với hàng sản xuất nội địa) để giảm bớt thâm hụt thương mại của Mỹ. Ví dụ như hạt dẻ cười nhập từ Mỹ sau đó chế biến xong, ta lại xuất trở lại thị trường Mỹ.
Kiểm soát chất lượng để duy trì và phát huy lợi thế tại thị trường UAE
Theo ông Trương Xuân Trung, Bí thư thứ nhất, phụ trách Thương vụ Việt Nam tại Các Tiểu vương quốc Ả rập thống nhất (UAE) - Qatar, cho biết, 7 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu một số mặt hàng nông, lâm, thủy sản chủ lực của Việt Nam sang thị trường UAE ghi nhận những bước tăng trưởng đáng kể, nhất là hạt điều (tăng 34,64%), rau quả (tăng 55%), thủy sản (tăng 21%), gỗ và sản phẩm gỗ (tăng 26,5%). Tuy nhiên, vẫn có những sản phẩm sụt giảm như gạo,tiêu. Riêng sản phẩm chè gần như đi ngang.
Điều này cho thấy bức tranh xuất khẩu vẫn tồn tại những gam màu trái chiều, đòi hỏi các giải pháp đồng bộ để duy trì đà tăng trưởng. Báo cáo tại Hội nghị cho thấy, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu nông, lâm, thủy sản của UAE đạt khoảng 200 tỷ USD mỗi năm, trong đó Việt Nam chiếm chưa tới 10%. Đáng chú ý, đây là thị trường mang tính chất trung chuyển: phần lớn hàng hóa nhập vào sẽ được tái xuất sang các thị trường khác, thay vì tiêu thụ nội địa.

Về thuế quan, UAE được đánh giá là thị trường mở, với mức thuế nhập khẩu chỉ từ 0 - 5% cho hầu hết sản phẩm. Cụ thể, thủy sản chịu thuế 5%; rau quả tươi, hạt điều, tiêu chịu thuế 5%; gạo, trái cây cùng một số loại rau quả tươi và thủy sản khác được hưởng mức thuế 0%.
Chính sách này tạo điều kiện thuận lợi đáng kể cho hàng hóa Việt Nam. Ngoài ra, UAE và các nước thành viên Hội đồng Hợp tác vùng Vịnh (GCC) áp dụng chung một hệ thống hải quan. Nhờ đó, hàng hóa Việt Nam sau khi vào UAE có thể tiếp tục lưu thông sang các nước GCC mà không bị đánh thuế lần hai, đây là một lợi thế quan trọng trong mở rộng thị trường. Tuy vậy, rủi ro cũng hiện hữu. Nếu một sản phẩm của Việt Nam vi phạm tiêu chuẩn tại UAE, toàn bộ 6 nước GCC sẽ đồng loạt áp dụng biện pháp kiểm tra nghiêm ngặt, do đó sẽ gây ảnh hưởng lớn tới tiến độ xuất khẩu.
Từ thực tế này, Thứ trưởng Trần Thanh Nam khuyến cáo các doanh nghiệp xuất khẩu vào UAE và GCC phải đặc biệt chú trọng khâu kiểm soát chất lượng, đảm bảo sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm và dư lượng thuốc bảo vệ thực vật. Chỉ khi giữ vững uy tín chất lượng, hàng hóa Việt Nam mới có thể duy trì lợi thế và mở rộng chỗ đứng tại những thị trường nhiều tiềm năng nhưng cũng đầy yêu cầu khắt khe này.
Đẩy mạnh xúc tiến thương mại vào thị trường phía Bắc Trung Quốc
Cập nhật tình hình thị trường Trung Quốc 6 tháng đầu năm, ông Nông Đức Lai, Tham tán thương mại Việt Nam tại Trung Quốc cho biết, với quy mô nhập khẩu hàng năm lên đến 2.500 tỷ USD, trong đó, nông sản từ 210 - 230 tỷ USD/năm, có thể thấy Trung Quốc vẫn là thị trường lớn đầy tiềm năng đối với hàng hóa nông lâm thủy sản của Việt Nam.

Ông Nông Đức Lai, Tham tán thương mại Việt Nam tại Trung Quốc.
Trung Quốc đang ngày càng mở rộng thị trường cho các nước để đa dạng hóa nguồn cung. Tính riêng trong 6 tháng đầu năm 2025, Trung Quốc đã mở cửa thị trường cho khoảng 15 sản phẩm nông lâm thủy sản cho gần 20 quốc gia, vùng lãnh thổ (sầu riêng của Campuchia, dừa tươi Malaysia, chuối tiêu của Colombia, xoài của Ecuador, hạt điều của Gambia, cây dược liệu của Nga, thủy sản tự nhiên của New Zealand, Brazil, Kenya, Đan Mạch, Hy Lạp, Faroe và thủy sản nuôi trồng Ả Rập, Croatia, Thái Lan, Lào; yến thô và tinh của Campuchia... và nhiều loại phụ phẩm nông thủy sản).
Song song với mở cửa thị trường, Trung Quốc cũng tăng cường công tác quản lý, giám sát đối với hàng hóa nhập khẩu (tiêu chuẩn chất lượng, an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc...). “Việt Nam là một trong các đối tác cung ứng hàng nông thủy sản lớn cho thị trường Trung Quốc, song cũng có tỷ lệ hàng nông sản thực phẩm nằm trong top các quốc gia/vùng lãnh thổ bị cảnh báo nhiều nhất.
Thời gian vừa qua, sản phẩm nông thủy sản Việt Nam bị cơ quan Hải quan Trung Quốc cảnh báo đã có cải thiện song vẫn ở mức cao, mặc dù cơ quan chức năng Việt Nam đã tăng cường công tác tuyên truyền, giám sát thậm chí cả chế tài”, ông Lai lưu ý.

Ông Lai cũng đưa ra một số khuyến nghị đối với doanh nghiệp Việt Nam, hiệp hội ngành hàng, địa phương Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc. Một là, cần chú trọng và không ngừng nâng cao chất lượng hàng hóa nông lâm thủy sản, doanh nghiệp cần tìm hiểu nắm rõ và tuân thủ quy định của nước nhập khẩu về tiêu chuẩn chất lượng, bao bì đóng gói, truy xuất nguồn gốc.
Hai là, đầu tư, ứng dụng công nghệ vào sản xuất, chế biến, bảo quản nhằm nâng cao giá trị gia tăng của các sản phẩm nông lâm thủy sản. Ba là, đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại vào sâu trong nội địa và các địa phương ở khu vực phía Bắc, Tây Bắc Trung Quốc.
Bốn là, bên cạnh đa dạng hóa sản phẩm, cần quan tâm, chú trọng đến mẫu mã, bao bì. Việc này đòi hỏi doanh nghiệp phải nghiên cứu nắm bắt nhu cầu thị hiếu, xu thế của thị trường từ đó phát triển sản phẩm, mẫu mã, bao bì phù hợp với nhu cầu thị trường.. Năm là, chú ý, chú trọng xây dựng thương hiệu cho sản phẩm xuất khẩu. Xây dựng, đăng ký thương hiệu phải được xem là những việc cần làm ngay khi thâm nhập, thậm chí là chuẩn bị thâm nhập thị trường.
Cần hạn chế truyền thông tiêu cực về thủy sản Việt Nam tại EU
Ông Trần Văn Công - Tham tán nông nghiệp Việt Nam tại thị trường EU đánh giá, tiềm năng thúc đẩy xuất khẩu nông lâm thủy sản vào thị trường EU còn rất lớn. Tuy nhiên, tỷ trọng hàng chế biến, giá trị gia tăng của Việt Nam xuất khẩu sang EU còn thấp, chưa tạo được kênh phân phối bền vững, chưa có thương hiệu, khả năng hiện diện tại chưa phổ biến.
Khoảng cách địa lý xa, tuyển vận chuyển Á - Âu hay xảy ra xung đột dẫn đến bị gián đoạn, chi phí logistics cao hơn so với các đối thủ cạnh tranh 30 - 40%, Bên cạnh đó, EU luôn đưa ra các tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm, phát triển bền vững cao và liên tục cập nhật.

Ông Trần Văn Công - Tham tán nông nghiệp Việt Nam tại thị trường EU.
EU dịch chuyển sang tiêu dùng xanh, sạch, đòi hỏi đáp ứng tiêu chuẩn phát triển bền vững về lao động, môi trường, giảm phát thải, giá trị tích hợp - di sản của sản phẩm nông nghiệp. Doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam còn yếu về chuẩn bị nguyên liệu, đầu tư máy móc công nghệ, thương hiệu, chi phí tiếp quảng bá tiếp thị, nghiệp vụ ngoại thương…
Để khai thác thị trường tiềm năng EU, Tham tán nông nghiệp Việt Nam tại thị trường EU Trần Văn Công kiến nghị, Việt Nam cần phát triển các vùng nguyên liệu đạt chuẩn EU; xây dựng các vùng sản xuất an toàn dịch bệnh đối với các vùng chăn nuôi trọng điểm để thúc đẩy việc đàm phán EU mở cửa thị trường sản phẩm động vật cho Việt Nam.
Ngoài ra, cần tăng cường xây dựng thương hiệu quốc gia, nhãn hiệu sản phẩm, doanh nghiệp đối với các sản phẩm nông lâm thủy sản xuất khẩu vào EU, tăng khả năng nhận diện sản phẩm nông sản thực phẩm Việt Nam trên thị trường EU, thâm nhập sâu hơn, đa dạng chủng loại sản phẩm hơn vào các kênh, chuỗi phân phối tại EU.
Đồng thời, triển khai thực hiện xây dựng chiến lược truyền thông dài hạn, chủ động để hạn chế truyền thông tiêu cực về thủy sản Việt Nam tại EU; rà soát và hoàn thiện hệ thống các tiêu chuẩn, quy chuẩn về chất lượng, an toàn thực phẩm, bền vững… phù hợp và tham chiếu các tiêu chuẩn EU.
Mục tiêu 65 tỷ USD trong tầm tay
Ông Ngô Hồng Phong - Cục trưởng Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho biết, bức tranh xuất khẩu nông, lâm, thủy sản 7 tháng đầu năm 2025 tiếp tục có nhiều điểm sáng.
Cũng theo ông Phong, Quyền Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng đã khẳng định quyết tâm đạt ít nhất 65 tỷ USD xuất khẩu nông, lâm, thủy sản trong năm 2025. Định hướng trọng tâm gồm: duy trì ổn định các thị trường truyền thống, mở rộng thị trường mới, chuyển từ tăng sản lượng sang tăng giá trị gia tăng với sản phẩm chế biến sâu, và tìm đầu ra mới cho các mặt hàng gặp khó tại Hoa Kỳ.

Ông Ngô Hồng Phong, Cục trưởng Cục Chất lượng, Chế biến và Phát triển thị trường, Bộ Nông nghiệp và Môi trường trình bày báo cáo về tình hình xuất khẩu nông lâm thủy sản 7 tháng đầu năm 2025. Ảnh: Nguyễn Thủy.
Trước mắt, Bộ tập trung hoàn thiện cơ chế về tỷ giá, tín dụng, logistics; đẩy nhanh đàm phán với Hoa Kỳ; cập nhật nhanh thông tin thị trường; bổ sung sản phẩm có giá trị gia tăng như thủy sản, trái cây chế biến; và triển khai giải pháp riêng cho từng ngành hàng.
Về lâu dài, ngành sẽ xây dựng vùng nguyên liệu tập trung đạt tiêu chuẩn quốc tế, giữ vững uy tín chất lượng, ứng dụng công nghệ cao, đổi mới bao bì. Từng thị trường sẽ có hướng tiếp cận riêng, trong đó, Hoa Kỳ: Đàm phán chia sẻ chi phí thuế để duy trì xuất khẩu; Trung Quốc: Mở rộng xuất khẩu chính ngạch; Châu Âu: Gỡ “thẻ vàng” IUU, tận dụng lợi thế thủy sản nuôi, rau quả; Nhật Bản: Gia tăng sản phẩm chế biến chất lượng cao; Hàn Quốc: Đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản, gỗ, lâm sản, trái cây; ASEAN: Mở rộng rau quả tươi, thủy sản, sản phẩm chăn nuôi; Trung Đông:Khai thác thị trường Halal trị giá khoảng 2.000 tỷ USD, chiếm 20% dân số toàn cầu. Đây là thị trường có tiềm năng rất lớn.

Ông Phong khẳng định. Bộ Nông nghiệp và Môi trường tin tưởng, với sự chỉ đạo quyết liệt của Đảng, Chính phủ và Bộ, cùng sự chủ động của doanh nghiệp, hiệp hội và địa phương, mục tiêu 65 tỷ USD xuất khẩu nông, lâm, thủy sản năm 2025 hoàn toàn trong tầm tay, bất chấp những biến động của thị trường quốc tế.
Bộ Nông nghiệp và Môi trường về địa phương hỗ trợ tháo gỡ khó khăn
Phát biểu khai mạc, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Thanh Nam nhấn mạnh, năm 2025 mở ra nhiều thuận lợi để đẩy mạnh xuất khẩu. Ngay từ đầu năm, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm phát huy kết quả của năm 2024 và hoàn thành mục tiêu năm 2025.
Nhờ vậy, giá trị sản xuất ngành nông nghiệp tăng trên 3,2% trong năm 2024 và đạt trên 3,8% chỉ trong 6 tháng đầu năm 2025. Theo chỉ tiêu được giao, ngành phải đạt tốc độ tăng trưởng từ 4% trở lên. Để hoàn thành mục tiêu này, Bộ trưởng đã phân công các thứ trưởng trực tiếp xuống địa phương, phối hợp hỗ trợ sau khi áp dụng mô hình chính quyền hai cấp, kịp thời tháo gỡ khó khăn.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Thanh Nam phát biểu khai mạc Hội nghị. Ảnh: Nguyễn Thủy.
Về xuất khẩu, Thứ trưởng cho biết, trong 7 tháng đầu năm 2025, kim ngạch toàn ngành đạt 39,7 tỷ USD, tăng 14,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: nông sản đạt 21,5 tỷ USD (tăng 17%), lâm sản 10,4 tỷ USD (tăng 8,6%), thủy sản 6,1 tỷ USD (tăng 13,8%), sản phẩm chăn nuôi 339,2 triệu USD (tăng 22,1%).
Đây là tín hiệu tích cực về xuất khẩu của ngành. Ba thị trường lớn là Mỹ, Trung Quốc và Nhật Bản đều duy trì tăng trưởng, dù bối cảnh còn nhiều khó khăn. Đặc biệt, xuất khẩu sang châu Âu tăng mạnh 49%, đạt 4,3 tỷ USD; Trung Đông tăng 10,9%; châu Phi tăng 8,9%.

Điều này cho thấy các thị trường ngoài nhóm trọng điểm cũng đang mở rộng. Bên cạnh thuận lợi, ngành vẫn đối mặt nhiều thách thức, nhất là thuế đối ứng từ Hoa Kỳ. Tuy nhiên, các doanh nghiệp nông sản Việt Nam vẫn khẳng định, có nhiều cơ hội để vào thị trường này.
Nếu đồng thời thúc đẩy đa dạng hóa các thị trường khác, khả năng đạt mục tiêu kim ngạch 65 tỷ USD trong năm 2025 là hoàn toàn khả thi. Thứ trưởng Trần Thanh Nam cũng đề xuất các giải pháp trọng tâm, trong đó ưu tiên xây dựng vùng nguyên liệu - yếu tố then chốt để nâng cao giá trị và năng lực cạnh tranh; cùng với đẩy mạnh xúc tiến thương mại, mở rộng và chuyển hướng thị trường xuất khẩu.