Việc xây dựng mô hình cơ giới hóa thu gom rơm rạ làm nguyên liệu sản xuất nấm, thức ăn chăn nuôi và phân bón hữu cơ tại một số tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đang mở ra hướng đi mới, góp phần nâng cao giá trị phụ phẩm lúa, tạo sinh kế mới, tăng thu nhập cho nông dân nghèo, giảm ô nhiễm môi trường và phát thải khí nhà kính, hướng tới nền nông nghiệp bền vững.
Xây dựng mô hình cơ giới hóa thu gom rơm rạ làm nguyên liệu sản xuất nấm, tại một số tỉnh ĐBSCL đang mở ra hướng đi mới, góp phần nâng cao giá trị phụ phẩm lúa, tăng thu nhập cho nông dân nghèo. Ảnh: Minh Sáng.
Trao đổi với PV Báo Nông nghiệp và Môi trường, ông Ngô Xuân Chinh, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu chuyển giao tiến bộ kỹ thuật nông nghiệp (Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam - IAS), cho rằng: Nếu người dân được tiếp cận đầy đủ thông tin này, kèm theo chuyển giao tốt kỹ thuật cơ giới hóa thu gom rơm rạ gắn với Đề án phát triển 1 triệu héc-ta lúa chất lượng cao, phát thải thấp đang được thực hiện tại khu vực ĐBSCL, sẽ giúp gia tăng thu nhập bền vững cho nông dân, nhất là những hộ nghèo.
Thưa ông, ông có thể khái quát những kết quả nổi bật của chương trình cơ giới hóa thu gom rơm rạ từ khi triển khai đến nay?
Năm 2023, Trung tâm chúng tôi được Trung tâm Khuyến nông Quốc gia giao thực hiện chương trình cơ giới hóa thu gom rơm rạ phục vụ chế biến các sản phẩm nông nghiệp tại ĐBSCL. Chương trình được triển khai thí điểm tại ba tỉnh gồm Đồng Tháp, Hậu Giang (cũ) và Tiền Giang (cũ).
Qua hơn hai năm thực hiện, mô hình đã chứng minh tính hiệu quả rõ rệt. Thu nhập của người trồng lúa tăng thêm từ 500.000 đến 1 triệu đồng/ha/vụ, không chỉ nhờ bán rơm mà còn từ các sinh kế mới phát sinh như trồng nấm rơm, sản xuất phân hữu cơ, chế biến thức ăn chăn nuôi. Với diện tích lúa rất lớn của ĐBSCL, giá trị gia tăng mang lại là con số đáng kể, góp phần giúp nhiều hộ nông dân thoát nghèo bền vững.
Vì sao chương trình chỉ triển khai thí điểm ở ba tỉnh trước, và điểm khác biệt cốt lõi của mô hình này so với cách làm truyền thống là gì?
Chúng tôi lựa chọn ba tỉnh để triển khai thí điểm nhằm xây dựng mô hình mẫu, đánh giá toàn diện hiệu quả kỹ thuật, kinh tế và khả năng nhân rộng. Dự kiến, từ năm 2026, mô hình sẽ được mở rộng ra toàn bộ các tỉnh trồng lúa, không chỉ riêng ĐBSCL mà còn ở nhiều vùng khác trên cả nước.
Điểm mới căn bản của mô hình là tổ chức theo hình thức dịch vụ cơ giới hóa. Nông dân không phải đầu tư máy móc lớn mà sử dụng dịch vụ thu gom rơm rạ ngay sau thu hoạch. Rơm rạ được phân loại, xử lý theo chuỗi giá trị: rơm đạt chất lượng làm giá thể trồng nấm; rơm phối trộn làm thức ăn chăn nuôi; phần còn lại ủ thành phân bón hữu cơ. Nhờ đó, rơm rạ không còn là phế phẩm mà trở thành tài nguyên có giá trị kinh tế.
Người nông dân hưởng lợi như thế nào khi tham gia mô hình, thưa ông?
Khi tham gia mô hình, nông dân không chỉ giảm chi phí xử lý rơm rạ mà còn có thêm “lợi nhuận kép”. Thứ nhất là thu nhập từ trồng nấm rơm – một nghề mang lại giá trị cao. Thứ hai là sản xuất phân bón hữu cơ giúp giảm chi phí phân hóa học. Thứ ba là nhiều hộ chăn nuôi đã chủ động chế biến thức ăn từ rơm rạ tại chỗ, giảm chi phí đầu vào.
Ban đầu, mỗi tỉnh chỉ có khoảng 35 - 50 hộ tham gia. Tuy nhiên, nhờ hiệu quả thực tế, đến nay mỗi tỉnh đã có 100-200 hộ tự nguyện tham gia và nhân rộng mô hình. Đây là minh chứng rõ nét cho tính khả thi và sức lan tỏa của chương trình.
Thưa ông, trong quá trình triển khai dự án cơ giới hóa thu gom rơm rạ, đâu là những thuận lợi và khó khăn lớn nhất? Công tác tuyên truyền, chuyển giao kỹ thuật đến nông dân được tổ chức như thế nào để bảo đảm?
Thuận lợi lớn nhất của dự án là nhận được sự quan tâm, ủng hộ tích cực của chính quyền địa phương và sự đồng thuận ngày càng cao của nông dân. Mô hình gắn trực tiếp với lợi ích kinh tế và môi trường nên khi người dân thấy được hiệu quả, họ chủ động tham gia. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ kỹ thuật của dự án có kinh nghiệm thực tiễn, thường xuyên bám sát đồng ruộng, giúp việc triển khai các nội dung kỹ thuật diễn ra thuận lợi.
Tuy nhiên, khó khăn ban đầu là tập quán sản xuất truyền thống của nông dân còn e dè trước những cách làm mới, nhất là thay đổi thói quen xử lý rơm rạ sau thu hoạch. Ngoài ra, khung thời gian ngắn giữa hai vụ lúa khiến việc tổ chức thu gom, cơ giới hóa rơm rạ với khối lượng lớn gặp không ít thách thức.
Ban chủ nhiệm dự án tổ chức nhiều lớp tập huấn, hội thảo đầu bờ, xây dựng mô hình trình diễn để nông dân trực tiếp “mắt thấy, tay làm”. Ảnh: Minh Sáng.
Xác định truyền thông là khâu then chốt, Ban Chủ nhiệm dự án đã triển khai đồng bộ nhiều hình thức tuyên truyền và chuyển giao kỹ thuật. Chúng tôi tổ chức các lớp tập huấn, hội thảo đầu bờ, xây dựng mô hình trình diễn để nông dân trực tiếp “mắt thấy, tay làm”. Đồng thời, thông tin về dự án và quy trình kỹ thuật được phổ biến rộng rãi thông qua hệ thống khuyến nông, hợp tác xã, các phương tiện truyền thông đại chúng và mạng xã hội tại địa phương. Nhờ đó, nhận thức của nông dân từng bước được nâng lên, nhiều hộ dân chủ động áp dụng quy trình kỹ thuật, giúp dự án triển khai đúng tiến độ và đạt kết quả tích cực.
Để giúp nông dân thoát nghèo và nâng cao thu nhập một cách bền vững, dự án đã tăng cường công tác truyền thông cũng như chuyển giao kỹ thuật ra sao thưa ông?
Mục tiêu xuyên suốt của dự án là nâng cao thu nhập cho người trồng lúa, vì vậy công tác truyền thông được chú trọng ngay từ đầu. Các thông tin về mô hình, lợi ích kinh tế và quy trình kỹ thuật được truyền tải đa kênh, từ họp dân, hội thảo đầu bờ, tập huấn trực tiếp đến hệ thống khuyến nông, hợp tác xã và báo chí. Qua đó, giúp bà con hiểu rõ vì sao cần thay đổi tập quán và làm thế nào để đạt hiệu quả cao nhất.
Song song với đó, đội ngũ cán bộ kỹ thuật luôn bám sát đồng ruộng, đồng hành cùng nông dân trong suốt quá trình triển khai. Cán bộ không chỉ hướng dẫn lý thuyết mà trực tiếp “cầm tay chỉ việc”, từ khâu thu gom, xử lý rơm rạ đến ứng dụng vào trồng nấm, sản xuất thức ăn chăn nuôi hay phân bón hữu cơ. Những vướng mắc phát sinh được tư vấn, điều chỉnh kịp thời ngay tại ruộng, tại mô hình.
Nhờ cách làm sát thực tiễn này, nông dân tiếp cận kỹ thuật nhanh hơn, tự tin áp dụng và từng bước nhân rộng mô hình. Qua đó, giá trị rơm rạ được nâng lên, chi phí sản xuất giảm và thu nhập của người trồng lúa được cải thiện một cách bền vững.
Vấn đề đầu ra cho các sản phẩm từ rơm rạ được giải quyết như thế nào thưa ông?
Ngay từ đầu, chúng tôi đã chú trọng liên kết với hợp tác xã, doanh nghiệp và các trang trại chăn nuôi để bao tiêu sản phẩm. Nấm rơm và phân hữu cơ đều có đầu ra ổn định. Riêng lĩnh vực nấm rơm, Trung tâm còn phối hợp với các doanh nghiệp chế biến sâu, sản xuất các sản phẩm như nấm sấy, bột nấm, xì dầu từ nấm rơm… Qua đó, nâng cao giá trị gia tăng, thay vì chỉ tiêu thụ nấm tươi như trước.
Sự phối hợp của chính quyền địa phương có vai trò như thế nào trong thành công của mô hình?
Có thể nói, sự ủng hộ của chính quyền địa phương là yếu tố then chốt. Từ cấp tỉnh đến xã đều tham gia vận động người dân, lựa chọn các hộ điển hình, đặc biệt ưu tiên lực lượng lao động trẻ trong nông nghiệp vì khả năng tiếp thu nhanh. Chỉ sau một năm triển khai, không chỉ các hộ trong dự án mà nhiều hộ khác cũng chủ động xin được tập huấn để tự áp dụng mô hình.
Thời gian tới, Trung tâm có định hướng đổi mới gì để tiếp tục nâng cao hiệu quả chương trình?
Chúng tôi sẽ tiếp tục cập nhật các tiến bộ khoa học - công nghệ mới, không chỉ trong nước mà còn từ các quốc gia có nền nông nghiệp tiên tiến như Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan. Đặc biệt, trong xử lý rơm rạ tại đồng ruộng, chúng tôi đang chuyển giao các dòng vi sinh mạnh, có thể phân hủy rơm rạ ngay tại chỗ chỉ trong 5 - 10 ngày, thay vì phải ủ hàng tháng như trước.
Những tiến bộ này sẽ được tích hợp chặt chẽ vào Đề án 1 triệu héc-ta lúa phát thải thấp, nhằm giúp nông dân giảm chi phí, tăng thu nhập và góp phần xây dựng nền nông nghiệp xanh, tuần hoàn và bền vững cho ĐBSCL.
Xin cảm ơn ông!













![Chuyện chưa kể về thú y cơ sở: [Bài 4] Bò Mông không còn thả rông](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/480w/files/huannn/2025/12/18/3331-20251105_101451-170956_311.jpg)



![Chuyện chưa kể về thú y cơ sở: [Bài 3] Cuộc cách mạng phục tráng bò Mông](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/192w/files/doanhtq/2025/12/18/5833-20251106_143252-182249_380-nongnghiep-065812.jpg)