Hồ treo - cú hích để phát triển du lịch
Năm 2012, tại Khu du lịch sinh thái Panhou (xã Thông Nguyên, huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang cũ) tổ chức Hội nghị triển khai xây dựng làng văn hóa du lịch tiêu biểu gắn xây dựng Nông thôn mới. 10 tiêu chí được đưa ra làm cơ sở để lựa chọn, xây dựng những bản làng kiểu mẫu phát triển thành làng văn hóa du lịch. “Tuyên bố Panhou” trở thành tên gọi cho chủ trương phát triển du lịch bản làng - hướng đi mới để xóa đói, giảm nghèo, bảo tồn văn hóa, bản sắc của người dân bản địa.

Hai mẹ con người phụ nữ H'mông giặt quần áo bên khe nước tại bãi đá Mặt trăng (xã Pải Lủng). Ảnh: Kiên Trung.
Những làng văn hóa du lịch Nặm Đăm, thôn Chì, xã Xuân Giang, Hạ Thành, Thanh Sơn, Nà Ràng, Lũng Cẩm, Tát Ngà… là những mô hình bản làng làm du lịch đầu tiên ra đời tại thời điểm này.
Những năm tiếp theo, một loạt các bản làng cũng chuyển mình, đổi hướng từ trồng trọt, chăn nuôi sang làm du lịch nông thôn như Sảng Pả A (Mèo Vạc), thôn Bục Bản (Yên Minh), thôn Khiềm (Bắc Quang), Bản Lạn (Bắc Mê), thôn Phìn Hồ, Nậm Hồng (Hoàng Su Phì)…
Tính đến thời điểm hiện tại, đã có trên 40 làng văn hóa làm du lịch cộng đồng gắn với phát triển nông nghiệp, nông thôn trải dài các thôn bản vùng cực Bắc. Sự tối ưu của mô hình này đó là khai thác được lợi thế tại chỗ và phát huy tối đa bản sắc văn hóa bản địa.
Bên cạnh nỗ lực của chính quyền trong việc đầu tư xây dựng hạ tầng, bảo vệ cảnh quan, môi trường… để kiến tạo không gian văn hóa du lịch, một yếu tố quan trọng khác đó là nguồn nước sinh hoạt cho các bản làng du lịch.

Khi chưa có những chiếc hồ treo trữ nước, người dân phải đi bòn từng can nước...

Những mó nước trong khe đá như thế này là sự hiếm hoi, chưa cần biết chất lượng nước có đảm bảo an toàn, vệ sinh hay không. Ảnh: Kiên Trung.
Hội nghị chuyên đề về công tác du lịch tổ chức hồi đầu năm 2025, ngành du lịch Hà Giang cho biết, năm 2024, toàn tỉnh đã đón 3,2 triệu lượt du khách, doanh thu đạt 8.100 tỷ đồng. Khách du lịch quốc tế đến từ 186 quốc gia, vùng lãnh thổ...
Thương hiệu du lịch của Hà Giang đã ở tầm vóc quốc tế, với các danh hiệu: “Điểm đến du lịch mới nổi hàng đầu châu Á 2023", "Điểm đến văn hóa khu vực hàng đầu châu Á 2024”, được vinh danh tại giải thưởng du lịch thế giới (World Travel Awards - WTA).
Những danh hiệu này tiếp thêm động lực để Hà Giang vững tin chủ trương đã chọn, tiếp tục mục tiêu hoàn thành xây dựng Công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn trở thành Khu du lịch quốc gia tầm nhìn đến năm 2030; đặt mục tiêu đón 3,5 triệu lượt du khách trong năm 2025.
Tuy nhiên, sự phát triển, mở rộng về lượng khách du lịch cũng đặt ra những áp lực lớn cho địa phương, nhất là vấn đề nguồn nước sinh hoạt.

Nhìn những hình ảnh này để chia sẻ khó khăn với bà con vùng cao...

... từ đó biết quý giá, trân trọng nguồn nước hơn. Ảnh: Kiên Trung.
Anh Ngô Quốc Kỳ - chuyên viên Phòng kinh tế xã Đồng Văn (đơn vị sau hợp nhất) cho biết: tâm lý khách đi du lịch thường yêu cầu rất cao vấn đề vệ sinh môi trường, đặc biệt là khách quốc tế. Nhu cầu ăn uống, sinh hoạt… ngày càng hướng đến sự thoải mái khiến lượng nước sử dụng mỗi ngày gia tăng, trong khi Đồng Văn, Mèo Vạc có tới 6 tháng mùa khô - là những thời điểm khô hạn, thiếu nước…
Làm một phép tính, anh Kỳ cho biết: “Lấy ví dụ, một lần nhấn nút xả bồn vệ sinh tiêu tốn từ 2 - 5 lít nước. Mình không thể yêu cầu du khách ấn nút to hay nhỏ trên bồn cầu để tiết kiệm nước được, bởi đó là việc hết sức tế nhị. Còn nhà vệ sinh công cộng nếu không sạch sẽ, đảm bảo vệ sinh sẽ để lại ấn tượng không tốt, ám ảnh họ cả chuyến đi và từ đó ảnh hưởng tới uy tín, thương hiệu của ngành du lịch. Do đó, để đảm bảo nguồn cung cấp nước sạch cho những nơi làm du lịch cần nhiều giải pháp tích trữ nước hơn”.
Thực trạng hiển nhiên này khiến những chiếc hồ treo không chỉ là giải pháp của mục tiêu thủy lợi trên vùng cao, mà nó là một phần không nhỏ giải quyết nhu cầu cung cấp nước sinh hoạt. Các hộ dân, các điểm kinh doanh du lịch nhiều năm qua đã kéo vòi dẫn nước, dùng các vật chứa để lấy nước từ hồ treo về tích trữ, sử dụng trong sinh hoạt. Hồ treo đã giúp nhiều bản làng hóa giải cơn khát thiếu nước…
Tấm biển lạ trong khu di tích Nhà Vương
“Cao nguyên đá luôn thiếu nước, các bạn hãy vui lòng trả phí khi sử dụng nước”. Dòng chữ nhỏ được in trên một chiếc biển đặt ngoài cửa nhà vệ sinh công cộng tại khu di tích Nhà Vương (xã Sà Phìn), bên cạnh là một chiếc thùng trong suốt, bên trong là những tờ tiền mệnh giá nhỏ - khiến nhiều người chú ý. Rất nhiều du khách, cả trong và ngoài nước, lần đầu đặt chân đến Hà Giang, đều rất tò mò về tấm biển này.

Hồ treo trữ nước đầu tiên được thí điểm xây dựng trên Cao nguyên đá vào tháng 5/2002 đã mở đường giúp bà con vùng cao đỡ khát. Ảnh: Kiên Trung.
Lý Văn Tinh (một thanh niên bản địa chạy xe máy chở khách du lịch theo tuor) chia sẻ: “Nhiều khách thắc mắc hỏi em điều này, tại sao Di tích nhà Vương lại đặt tấm biển này, có phải vì muốn khách phải trả tiền đi vệ sinh hay không. Em phải giải thích, vùng cao rất thiếu nước, có tiền cũng không thể đi mua được vì nước phải vận chuyển từ rất xa mới vào tới nơi”.
Các công ty du lịch đưa khách lên khám phá cao nguyên đá, trong nội dung đào tạo kỹ năng cho các nhân viên của mình có lẽ cũng cần đưa nội dung này vào trong khóa học: chia sẻ câu chuyện thiếu nước tại vùng khô hạn để khách du lịch hiểu, cảm thông, chia sẻ, để từ đó họ có ý thức tự giác, biết sử dụng nước đúng lúc, đúng chỗ, biết quý trọng nguồn nước quý giá khi đặt chân lên mảnh đất này. Đó là sự tôn trọng vùng đất mà họ đến. Nó không làm xấu đi hình ảnh Hà Giang, mà càng khiến người ta trân trọng, cảm phục ý chí, nghị lực, sự bền bỉ… của những người dân bản địa.

Một bể trữ nước mưa dung tích 10.000m3 được xây dựng từ tháng 3/2008, tại xã Thài Phìn Tủng.

Công trình hồ treo trữ nước tại thôn Lũng Cẩm Trên, xã Sủng Là. Ảnh: Kiên Trung.
Ông Lù A Quẩy, thôn Má Lủ, xã Đồng Văn - người đảm nhiệm chức vụ trưởng công an xã từ khi Đồng Văn còn mang tên xã những năm 1990 thế kỷ trước, sau đó trải qua hàng loạt các vị trí, chức vụ khác nhau, gắn bó với mảnh đất này ròng rã gần 50 năm. Lù A Quẩy vừa nhận huy hiệu 45 năm tuổi Đảng vào ngày 3/2/2025 mới đây. Ông là người hiểu rõ nhất về sự khô hạn, thiếu nước của mảnh đất này.
Vị cán bộ lão thành người Giáy kể: “Bao nhiêu năm trước, đồng bào tự loay hoay đi tìm nguồn nước. Nhà ai cũng tự dẫn một dây nước từ khe núi về, khi chưa có đường ống nhựa thì chẻ đôi cây tre, vầu, chặt bỏ đầu mẩu làm rãnh dẫn nước. Qua bao nhiêu đường đất, qua bao nhiêu gập ghềnh, nước đưa về không có cái đựng, nên cứ tự chảy, hết mùa mưa đến mùa khô là khắc hết nước. Khi ấy lại đi thật xa, tìm khe đá, mó nước còn sót, chắt từng can nước mang về, khổ lắm”.
Nói về những chiếc hồ treo xuất hiện trên quê hương mình gần 20 năm nay, ông Lù A Quẩy bảo, đó là một “công trình vĩ đại” trên cao nguyên đá, là niềm mơ ước bao đời của bà con vùng cao. Những ai đã trải qua tao đoạn “nghiêng núi” để bòn từng can nước, sung sướng đến phát khóc khi đứng trước một hồ nước đầy ăm ắp, mát lành, thánh thiện, nằm gọn gàng trong một thung lũng giữa bản làng.
(Còn tiếp)