| Hotline: 0983.970.780

Kiệt tác hồ treo thủy lợi trên Cao nguyên đá

Bài 2: Giải cơn khát ở Cán Chu Phìn

Thứ Ba 05/08/2025 , 10:43 (GMT+7)

Những bản làng trên cao nguyên đá gần 20 năm qua đã dịu cơn khát nhờ những chiếc hồ treo, những bể chứa nước kiên cố theo dự án giảm nghèo...

Những chiếc bể chứa nước mưa kỳ diệu ở Cán Chu Phìn

Cán Chu Phìn là một trong những vùng khó khăn của huyện Mèo Vạc cũ, nằm hoàn toàn trong vùng lõi cao nguyên đá. Từ trung tâm Mèo Vạc vào Cán Chu Phìn hơn 20km đường núi, chạy thêm ngần ấy đường là tới Khâu Vai – điểm chót cùng Mèo Vạc giáp với sông Nho Quế.

Người dân Cán Chu Phìn bòn từng can nước ngọt tích trữ để sinh hoạt. Ảnh: Kiên Trung.

Người dân Cán Chu Phìn bòn từng can nước ngọt tích trữ để sinh hoạt. Ảnh: Kiên Trung.

Như nhiều vùng đá khác, Cán Chu Phìn cũng thiếu nước. Mùa khô, bà con phải tích từng can nước dự trữ, tằn tiện và dè sẻn dùng dần. Nước sinh hoạt ở Cán Chu Phìn cũng hiếm hoi như gạo. Nhưng người dân có thể dùng ngô làm mèn mén trong những tháng giáp hạt, còn lấy gì để thay thế khi thiếu nước thì quả là chưa có câu trả lời. Khó khăn về địa hình, đất canh tác nông nghiệp, cùng với cái khó của nguồn nước khiến Cán Chu Phìn không thể “nghĩ lớn, làm lớn” khi muốn thay đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Thiếu nước, dù có nghĩ ra nhiều mô hình kinh tế xóa nghèo cũng không thể làm nổi.

Lầu Mí Và, nguyên Phó Bí thư Đảng ủy xã Cán Chu Phìn cho hay: trước khi hợp nhất, xã có 12 thôn, 1.257 hộ dân với khoảng 7.000 nhân khẩu, tỷ lệ hộ nghèo lên tới 70%. Muốn giúp bà con bớt nghèo, nhiều dự án thay đổi cơ cấu, cây trồng vật nuôi đã được đưa về, từ cây ngô lai, cải dầu, ngô nếp… qua mấy vụ nhưng đều không thành công. Ngô lai trồng được nhưng hay bị sâu mọt, không thể bảo quản được lâu.

Mấy năm nay, Cán Chu Phìn chủ trương làm du lịch dựa trên văn hóa truyền thống của người Mông, đặc biệt là khai thác nét độc đáo của những bức tường rào đá… Kết hợp với các chính sách, chuyển đổi kỹ thuật trong chăn nuôi, trồng trọt…, cái đói, cái nghèo đã dần bị đẩy xa... Nhưng, trong muôn nỗi lo, vẫn ám ảnh nỗi lo thiếu nước!

Khu vực bể chứa nước sinh hoạt lấy từ nguồn nước trên núi và hứng nước mưa tại thôn Há Ía, xã Cán Chu Phìn. Ảnh: Kiên Trung. 

Khu vực bể chứa nước sinh hoạt lấy từ nguồn nước trên núi và hứng nước mưa tại thôn Há Ía, xã Cán Chu Phìn. Ảnh: Kiên Trung. 

Hờ Pà Lúa, trưởng thôn Há Ía cho biết: Nhà nước hỗ trợ bà con làm bể chứa nước để phòng những ngày hạn hán; hỗ trợ mua trâu bò, lợn gà tăng gia sản xuất; hỗ trợ làm nhà ở; đời sống của bà con cũng dần khá hơn. Bởi thế, dù thôn có 131 hộ dân và có tới 84 hộ nghèo nhưng bà con vẫn chủ động góp công, hiến đất để làm đường vào thôn.

Tại trung tâm thôn Há Ía, bên khu đất rộng và bằng phẳng nhất thôn là cụm công trình 3 chiếc bể xi măng vuông thành sắc cạnh xây nổi, mỗi chiếc áng chừng tới vài chục khối quây quần bên nhau. Đó là những bể chứa nước mưa - nguồn sống của cả thôn. Một chiếc sân gạch phẳng phiu làm chỗ cho sinh hoạt chung, cả bản quây quần mỗi chiều. Không gian cộng đồng ấm cúng gợi nhớ hình ảnh thân thuộc của những làng quê miền xuôi những năm 90 của thế kỷ trước, cả làng, cả xóm quây quần bên gốc đa, giếng nước, ao đình…

Vùng đồng rừng thiếu nước, những thôn, bản có những bể chứa nước mưa như thế này là một gia tài. Ở dưới đồng bằng, khi đời sống ngày càng nâng cao, nước máy về tận nhà, những bể nước cũ kỹ bị dỡ bỏ; những chiếc giếng làng bị bỏ không, hoang vắng…

So sánh điều đó để thấy rằng, mỗi vùng miền có một đặc thù. Khoảng cách về phát triển kinh tế giữa các bản làng cách biệt nhiều so với miền xuôi. Vậy nên, ở những bản làng xa xôi, thiên nhiên khắc nghiệt, cơ sở vật chất hnaj chế, thì có được những bể nước như thế này là niềm ao ước!

Hàng trăm hồ treo giải bài toán thiếu nước vùng cao 

Phong trào xây bể chứa nước sinh hoạt, hồ treo tích nước tại các bản làng của 4 huyện vùng cao Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc trên Cao nguyên đá đã thực sự lan tỏa. Từ 30 chiếc hồ treo đầu tiên giai đoạn 2007 - 2010, Nhà nước đã hỗ trợ cho bà con xây mới thêm 99 hồ chứa từ các năm 2013 – 2014. Giai đoạn 2015 - 2020, tiếp tục đầu tư xây dựng 194 hồ nhằm mục tiêu giải quyết cơ bản tình trạng thiếu nước sinh hoạt vào mùa khô. Những nội dung này được tỉnh Hà Giang trước đây đưa vào đề án với tên gọi: “Đề án Hồ chứa nước 4 huyện vùng cao núi đá phía Bắc”. Nó được người dân đặt nhiều kỳ vọng.

 
Trẻ em đùa vui bên không gian hồ treo tại thôn Lũng Cẩm đang được thau dọn để chuẩn bị tích nước vào mùa mưa. Ảnh: Kiên Trung.

Trẻ em đùa vui bên không gian hồ treo tại thôn Lũng Cẩm đang được thau dọn để chuẩn bị tích nước vào mùa mưa. Ảnh: Kiên Trung.

Tháng 2/2012, UBND tỉnh Hà Giang tổ chức Hội nghị tổng kết 3 năm thực hiện Kết quả triển khai đề tài khoa học: “Nghiên cứu thử nghiệm một số giải pháp cấp nước cho một số khu vực đặc biệt khó khăn vùng núi phía Bắc”. Đề tài do Tiến sỹ Vũ Cao Minh (Viện Địa chất, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam) làm Chủ nhiệm, nghiên cứu, xây thử nghiệm thành công 2 hồ chứa tại xã Sà Phìn (huyện Đồng Văn và xã Tả Lủng, huyện Mèo Vạc) triển khai từ năm 2006 - 2008. Giáo sư, Viện sỹ Đặng Vũ Minh - Chủ tịch Liên hiệp các Hội khoa học Việt Nam là Chủ tịch Hội đồng Nghiệm thu Đề tài cùng các thành viên là các nhà khoa học công tác tại Viện Vật lý địa cầu, Viện Địa chất (Đại học Mỏ - Địa chất).

Theo Hội đồng đánh giá, trong các giải pháp lấy nước mà người dân cao nguyên đá đang áp dụng (bao gồm bơm hút từ các hang động, sông suối; khoan giếng…), biện pháp lấy nước từ các vách núi là giải pháp mang tính phổ quát nhất. Mô hình hồ treo có khả năng áp dụng và nhân rộng tốt nhất trong điều kiện vùng núi đá vôi (vùng cao nguyên đá).

Trong 5 năm tiếp theo (từ 2007 - 2012), 91 hồ treo tiếp tục được xây dựng phân đều cho những vùng khô hạn với tổng mức đầu tư hơn 1.096 tỷ đồng - một con số rất lớn giai đoạn những năm đầu thế kỷ.

Theo thiết kế, có 35 hồ treo có dung tích chứa dưới 5.000m3 nước; trên 5.000m2 là 42 hồ. Các nhà tư vấn thiết kế đã đưa ra 3 loại kết cấu chính: đáy 1 lớp bê tông cốt thép, tường xây đá hộc áp dụng trong trường hợp dung tích hồ nhỏ và vừa; nền đáy và thành hồ tương đối ổn định.

Hồ treo tích nước gần bãi đá Mặt trăng - cao nguyên đá Đồng Văn. Ảnh: Khương Trung.

Hồ treo tích nước gần bãi đá Mặt trăng - cao nguyên đá Đồng Văn. Ảnh: Khương Trung.

Đáy và thành hồ 2 lớp bê tông cốt thép áp dụng trong trường hợp hồ có dung tích lớn, nền đáy và thành hồ không ổn định (bề mặt địa hình karst và đất yếu). Đáy và thành hồ 1 lớp bê tông cốt thép áp dụng trong trường hợp hồ có dung tích vừa, nhỏ; nền đáy và thành hồ rất ổn định.

Hình thức tích nước tận dụng các nguồn nước sẵn có quanh năm để xây dựng công trình tự chảy đưa vào hồ (với nơi có nguồn nước) hoặc xây dựng hệ thống thu nước tại các mạch lộ khi có mưa, xây dựng thềm hứng nước mặt; xây dựng mái hứng nước mưa quanh hồ.

Sau khi công trình hoàn thành, bàn giao cho cấp xã quản lý, đưa vào sử dụng. Tiếp đó, các xã tiếp tục thành lập các tổ quản lý sử dụng công trình hồ chứa.

Tỉnh Hà Giang đánh giá, chương trình hồ chứa nước sinh hoạt tại 4 huyện vùng cao phía Bắc là một chương trình đặc biệt từ trước đến nay về giải quyết tình trạng thiếu nước sinh hoạt từ bao đời nay cho đồng bào một cách ổn định, lâu dài và bền vững, thể hiện sự quan tâm to lớn của Đảng và Chính phủ đối với người dân vùng cao núi đá, vùng sâu, vùng xa của tỉnh.

Các hồ chứa được xây dựng đã mang lại hiệu quả to lớn, cải thiện cuộc sống của người dân, góp phần thay đổi diện mạo xã hội, thúc đẩy kinh tế vùng phát triển, ổn định chính trị vùng biên cương của Tổ quốc; tạo cảnh quan môi trường sinh thái, tạo điều kiện phát triển du lịch đối với Công viên địa chất - Cao nguyên đá Đồng Văn.

(Còn tiếp)

Xem thêm
Chính phủ dự kiến quy định lương tối thiểu theo 4 vùng

Từ ngày 1/1/2026, dự kiến quy định mức lương tối thiểu sẽ xếp theo 4 vùng và sẽ tăng từ 250.000-350.000 đồng so với mức lương tối thiểu hiện hành.

Bình luận mới nhất