Tôm công nghệ cao là xu thế
Thời gian qua, những trang trại tôm công nghệ cao ở ĐBSCL đã cho thấy hiệu quả nổi trội so với những mô hình nuôi khác. Chỉ riêng ở tỉnh Bạc Liêu đã có 6 HTX nuôi tôm công nghệ cao, tổng quy mô trên 500ha, thu hút trên 150 thành viên tham gia sử dụng các sản phẩm, dịch vụ trong chuỗi liên kết.

Nuôi tôm công nghệ cao góp phần nâng cao năng suất, giảm thiểu rủi ro dịch bệnh, giúp người nuôi tối ưu hóa chi phí sản xuất. Ảnh: Kim Anh.
Tại HTX nuôi tôm công nghệ cao Đông Hải ở ấp Trường Điền, xã Long Điền Đông (huyện Đông Hải) đang phát triển gần 88ha theo tiêu chuẩn ASC. Thay vì nuôi tôm dưới ao đất truyền thống, các thành viên đầu tư ao tròn nổi lót bạt, với 8 ao, mỗi ao thể tích 600m3, với chi phí khoảng 75 triệu đồng.
Toàn bộ khu vực nuôi được HTX che lưới nhằm hạn chế tác động từ ánh nắng mặt trời đến quá trình sinh trưởng của tôm. Đồng thời, HTX thực hiện mô hình khép kín, với quy trình vận hành nghiêm ngặt, được quản lý theo chương trình “3 sạch”: tôm giống sạch bệnh, nước sạch, đáy ao sạch. Nước thải trong quá trình nuôi sẽ được bơm qua các ao lọc khác nhau có nuôi cá, cua. Nước mặt sau lắng sẽ chảy qua ao khác và HTX sẽ xử lý trước khi sử dụng lại để nuôi tôm.
Nuôi tôm công nghệ cao có đặc thù mật độ thả nuôi dày, tuy nhiên không dùng kháng sinh, nên hộ nuôi có thể quản lý được thức ăn và môi trường, tôm thu hoạch gần như là tôm sạch. Đặc biệt, việc nuôi tôm đạt tỷ lệ thành công trên 90% giúp năng suất tôm tăng gấp nhiều lần so với nuôi ao đất truyền thống.
Năng suất tôm nguyên liệu của HTX đạt khoảng 700-1.000 tấn/năm, đảm bảo nguồn cung ổn định. Lợi nhuận bình quân của HTX đạt trên 5 tỷ đồng/ha, doanh thu từ dịch vụ của HTX đạt 110 triệu đồng.

Bạc Liêu là một trong những địa phương có số lượng HTX phát triển mô hình nuôi tôm công nghệ cao quy mô lớn ở ĐBSCL. Ảnh: Kim Anh.
Hộ dân Trần Thanh Triều ở xã Long Điền, huyện Đông Hải cũng đang phát triển khoảng 10ha nuôi tôm công nghệ cao. Ông cho biết, tùy theo mức độ đầu tư và quy mô trang trại mà người nuôi ứng dụng công nghệ vào quy trình nuôi.
Ngoài lót bạt đáy ao, một số công nghệ được ứng dụng phổ biến như: quy trình cho ăn tự động dựa trên cảm biến, theo dõi lượng thức ăn trong ao nuôi; thiết bị theo dõi chất lượng môi trường nước ao nuôi… Những trang trại quy mô lớn có thể áp dụng hệ thống nuôi tuần hoàn (RAS- Recirculating Aquaculture System) để lọc và tái sử dụng nước, để kiểm soát chất lượng tốt hơn và giảm thiểu ô nhiễm môi trường hay ứng dụng công nghệ Biofloc (dùng vi sinh để phân hủy chất hữu cơ) để giảm thiểu việc thay nước.
Hiện nay, toàn tỉnh Bạc Liêu đã xây dựng được 5 vùng nuôi tôm công nghệ cao với diện tích 3.900ha, theo các mô hình siêu thâm canh, thâm canh, bán thâm canh tập trung. Ngoài ra, Bạc Liêu có 6 doanh nghiệp được Bộ Nông nghiệp và Môi trường cấp Giấy chứng nhận doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
Tính toán bài toán giá thành sản xuất
Dù mang lại hiệu quả cao, tuy nhiên vấn đề chi phí trong nuôi tôm công nghệ cao vẫn là bài toán khó, cần được xem xét, tính toán kỹ lưỡng để lựa chọn phương thức tiếp cận hiệu quả nhất, giảm giá thành sản xuất.

Với mật độ thả nuôi phù hợp sẽ giảm thiểu rủi ro dịch bệnh trên tôm nuôi, hộ nuôi đảm bảo lợi nhuận. Ảnh: Kim Anh.
Theo ông Trần Thanh Triều, nếu trực tiếp mua thức ăn từ nhà máy, có thể tiết kiệm khoảng 50% chi phí. Tuy nhiên, do hạn chế nguồn vốn, ông phải mua trả chậm qua trung gian, với giá cao hơn khoảng 20.000 đồng/kg. Điều này đội chi phí sản xuất tôm lên rất cao, khoảng 80.000 - 100.000 đồng/kg đối với tôm loại 100 con/kg.
Liên quan đến vấn đề này, Chủ tịch Hiệp hội tôm Bạc Liêu Tạ Hoàng Nhiệm cho biết thêm, giá thức ăn cho tôm loại 40 đạm khi mua qua đại lý là 40.000 đồng/kg, trong khi nếu mua trực tiếp từ nhà máy chỉ 27.000-28.000 đồng/kg. Như vậy, mỗi tấn thức ăn, hộ nuôi phải bỏ ra thêm 12-13 triệu đồng.
Với một trang trại quy mô 10ha như của ông Triều, nếu mua thức ăn qua đại lý, chi phí mỗi vụ nuôi cao hơn khoảng 580 triệu đồng so với mua trực tiếp từ nhà máy.
Tại Công ty TNHH EcoSeafood Group, năm 2023, doanh nghiệp này đã bắt tay xây dựng trang trại E.S.G, quy mô 30ha, với 40 ao nuôi, đồng bộ ao ương dưỡng, xử lý nước thải, hệ thống lấy nước dài hơn 2km để xử lý mầm bệnh và dành 30% diện tích trồng rừng.
TS Trần Hữu Lộc - Nhà sáng lập và điều hành EcoSeafood Group đồng thời là giảng viên Khoa Thủy sản (Trường Đại học Nông lâm TP. Hồ Chí Minh) - cho biết, để mô hình nuôi tôm công nghệ cao thành công, ông đã tính đến phương án kéo giảm chi phí sản xuất và khấu hao xuống mức thấp.
Theo ông, yếu tố đầu tiên phải nuôi quy mô lớn để có lợi thế đầu vào trực tiếp từ nhà máy, với giá thấp, nhất là thức ăn cho tôm, từ đó, chi phí biến đổi trong sản xuất cũng giảm xuống. Với cách làm này, giá tôm loại 50 con/kg của ở E.S.G chỉ còn 50.000 đồng/kg, thấp hơn 30.000-40.000 đồng/kg so với nông hộ nuôi nhỏ lẻ bên ngoài.
Đối với chi phí cố định để đầu tư hạ tầng, ông Lộc kéo dài vòng đời dự án lên đến 10 năm thay vì 5 năm, vì vậy khấu hao cũng giảm xuống thấp. Nhờ đó, E.S.G không bị áp lực nuôi mật độ cao như một số trang trại công nghệ cao khác.

Khu vực xử lý nước trong trang trại nuôi tôm công nghệ cao được đầu tư bài bản, khép kín. Ảnh: Kim Anh.
Ông Lộc tính toán, với chi phí biến đổi là 50.000 đồng/kg như trên, trường hợp giá tôm nguyên liệu bán ra 100.000 đồng/kg, cứ mỗi kg, tôm trang trại của ông lãi 50.000 đồng.
Nếu trang trại có vốn đầu tư 20 tỷ đồng, tồn tại trong 10 năm, mỗi năm khấu hao 2 tỷ đồng, tức khối lượng tôm hòa vốn là 40 tấn (lấy khấu hao chia cho lợi nhuận mỗi ký tôm).
Từ kinh nghiệm thực tế này, ông Lộc khuyến cáo, để phát triển mô hình nuôi tôm công nghệ cao, hộ nuôi khi thiết kế trang trại cần tính toán để đạt được khối lượng hòa vốn thấp, bà con có thể nuôi với mật độ thấp nhưng vẫn vượt qua được khối lượng hòa vốn, nói cách khác là có lợi nhuận.
Nhìn chung, để ngành tôm phát triển bền vững, các hộ nuôi cần chuyển đổi sang mô hình liên kết chuỗi, tăng quy mô sản xuất và tối ưu hóa chi phí. Theo TS Trần Hữu Lộc, khi nhiều trang trại thành công, nông dân sẽ nhận ra tầm quan trọng của việc hợp tác, đăng ký doanh nghiệp để tiếp cận nguồn vốn vay và tối ưu hóa chi phí sản xuất.
Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao phát triển tôm Bạc Liêu hiện nay đã hoàn thành hạ tầng kỹ thuật và đầu tư giai đoạn 2 (đạt 97% khối lượng dự kiến hoàn thành).
Khu đã tuyển chọn được 9 doanh nghiệp đầu tư, thuộc 4 lĩnh vực: trình diễn Quy trình nuôi tôm kết hợp với thiết bị phụ trợ, chế phẩm sinh học; sản xuất tôm giống; nghiên cứu sản xuất thức ăn tôm.