Phó giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Nam Định Trần Đức Việt thông tin với Báo Nông nghiệp Việt Nam liên quan tới thông tin nhà thầu thi công hạng mục đắp áp trúc mái đê hữu Hồng (từ K175+065 - K180+700, thuộc xã Tân Thịnh và Nam Hồng, huyện Nam Trực) sử dụng vật liệu đắp thân đê mà báo chí đã phản ánh.
Theo đó, thực hiện chỉ đạo của UBND tỉnh tại văn bản số 376/UBND-VP3 ngày 5/6/2023 về việc kiểm tra, xử lý thông tin báo chí phản ánh, Sở NN-PTNT đã chủ trì, chỉ đạo, phối hợp đơn vị liên quan kiểm tra rà soát hiện trường dự án thành phần số 7 kể trên.
Sở NN-PTNT tỉnh Nam Định cho biết, nhà thầu thi công hạng mục nêu trên là Công ty cổ phần xây dựng công trình Nam Đô (thành phố Nam Định). Thời gian khởi công từ tháng 2/2023, hoàn thành trong vòng 29 tháng.

Bãi tập kết đất vật liệu để chuẩn bị thi công áp mái đê. Ảnh: Kiên Trung.
Kết quả kiểm tra cho thấy, trên hiện trường, đơn vị thi công có tập kết đất để đắp áp trúc mái đê (mở rộng mặt cắt thân đê). Vị trí tập kết trên do nhà thầu thuê, mượn tại địa phương. Thời điểm kiểm tra, đất có độ ẩm cao hơn so với yêu cầu kỹ thuật đắp đê, các khối lượng đất này chưa được Ban quản lý dự án nghiệm thu vật liệu đầu vào để sử dụng đắp đê.
“Đây mới là điểm tập kết nguyên vật liệu chứ không phải đang thi công. Thông tin sử dụng đất bùn để đắp chân đê là chưa đúng, gây hiểu lầm”, ông Việt nhấn mạnh.
Phơi khô để giảm độ ẩm trước khi thi công
Liên quan tới sự việc trên, đơn vị thi công hạng mục tu sửa tuyến đê xung yếu này đã có văn bản giải trình gửi Sở NN-PTNT tỉnh Nam Định - chủ đầu tư dự án.
Theo yêu cầu của hồ sơ thiết kế, đất đắp thân đê có yêu cầu độ chặt K95, chiều dày của 50cm trên cùng tiếp giáp với lớp kết cấu móng đường có yêu cầu độ chặt K98. Ngoài yêu cầu đảm bảo độ chặt chống lún khi có tác động của phương tiện vận tải, đất đắp đê còn phải đảm bảo yêu cầu chống thấm để phòng lũ (khi mực nước sông dâng cao, đê có nhiệm vụ ngăn nước không rò rỉ về phía đồng, hạn chế tối đa việc xói lở dẫn đến sạt trượt thân đê).
Vì vậy, loại đất đắp thân đê thường là loại đất có hàm lượng sét cao. Phương pháp xác định loại đất đắp có đảm bảo yêu cầu hay không là phương pháp thí nghiệm theo tiêu chuẩn (không dùng phương pháp quan sát bằng mắt thường).
Quá trình thi công, nhà thầu đã lấy mẫu đất tại nơi khai thác để phân tích các chỉ số (chỉ số dẻo, khối lượng thể tích khô lớn nhất, độ ẩm tối ưu, tỷ lệ sét và cát…) trước sự chứng kiến của đại diện chủ đầu tư, tư vấn thí nghiệm và đại diện nhà thầu.

Đoạn tu bổ đê xung yếu đi qua hai xã của huyện Nam Trực. Ảnh: Kiên Trung.
Mẫu đất được tiến hành thí nghiệm tại phòng thí nghiệm có kết quả đủ yêu cầu để sử dụng cho thi công công trình.
Ngoài ra, trong quá trình tập kết đất về hiện trường, các bên tiến hành lấy mẫu đất tại vị trí tập kết theo tần suất quy định. Kết quả thí nghiệm cũng duy trì các thông số ổn định như trên.
Tại báo cáo, đơn vị thi công cho hay, nguồn đất đắp nói chung và đất đắp đê nói riêng trên địa bàn tỉnh Nam Định vô cùng khan hiếm. Tại Thông báo giá xây dựng của Liên sở Xây dựng – Tài chính về giá vật liệu xây dựng hàng tháng cũng không có dữ liệu báo giá đất trên địa bàn tỉnh mà chỉ có báo giá tại các mỏ đất tại tỉnh Ninh Bình.
Dự án thành phần số 7 mà đơn vị này tham gia thi công sử dụng khối lượng đất lớn, riêng đoạn đê Hữu Hồng huyện Nam Trực có khối lượng yêu cầu là 42.000m3, yêu cầu về chất lượng rất khắt khe. Hiện tại, nhà thầu mới tập kết được khoảng 34.000m3 (đạt khoảng 81% nhu cầu).
Độ ẩm của đất tại vị trí khai thác lớn hơn yêu cầu kỹ thuật nhưng các chỉ tiêu cơ lý khác thì hoàn toàn đáp ứng. Do yêu cầu cấp bách của công tác thi công phòng chống lụt bão nên nhà thầu đã khắc phục mọi khó khăn, chấp nhận chi phí tăng thêm do việc phơi đất và trung chuyển.
“Sở NN-PTNT tỉnh Nam Định yêu cầu Ban quản lý dự án, nhà thầu thi công tăng cường các giải pháp thoát nước mưa tại các bãi đất tập kết, chỉ nghiệm thu vật liệu đất để đưa vào đắp đê khi đảm bảo yêu cầu, thi công theo đúng hồ sơ thiết kế được duyệt”, Phó Giám đốc Sở NN-PTNT tỉnh Nam Định Trần Đức Việt thông tin.