Giá bán thấp, chi phí cao
Theo khung giá nước sạch ban hành năm 2025, giá bán lẻ nước sinh hoạt ở khu vực nông thôn được quy định trong khoảng 2.000–11.000 đồng/m³, do UBND tỉnh quyết định tùy điều kiện từng địa phương. Mức giá này phù hợp với khả năng chi trả của người dân nhưng không phản ánh đầy đủ chi phí sản xuất, xử lý và vận hành thực tế.
Công nhân vệ sinh dàn mưa của Nhà máy nước Yên Phụ (Hà Nội). Ảnh: Tr. Du.
Tại các vùng miền núi, hải đảo hoặc khu vực chịu ảnh hưởng của xâm nhập mặn, chi phí vận hành có thể gấp đôi, gấp ba so với đô thị. Để duy trì hệ thống, đơn vị cấp nước phải chi phí cho điện, hóa chất, khấu hao thiết bị, sửa chữa đường ống... Trong khi đó, doanh thu từ giá bán nước không đủ bù đắp, khiến hoạt động thường xuyên bị gián đoạn, chất lượng nước suy giảm.
Báo cáo của Cục Quản lý và Xây dựng công trình thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) cho thấy, năm 2024 khoảng 35% công trình cấp nước nông thôn hoạt động kém hiệu quả hoặc ngừng hoạt động do thiếu kinh phí duy tu. Nhiều trạm cấp nước sau vài năm vận hành bị bỏ hoang, dẫn đến lãng phí đầu tư công và ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống dân cư.
Theo cán bộ kỹ thuật tại một đơn vị cấp nước tỉnh Phú Thọ chia sẻ: “Giá bán nước ở vùng nông thôn chỉ 5.000–6.000 đồng/m³, trong khi chi phí vận hành thực tế lên đến hơn 8.000 đồng. Không có cơ chế bù giá, càng vận hành càng lỗ.”
Khu vực xử lý nước sinh hoạt của Xí nghiệp cấp nước Phú Thọ (Phú Thọ). Ảnh: Nam Khánh.
Một thách thức lớn khác là tỷ lệ thất thoát nước cao. Theo Hiệp hội Cấp thoát nước Việt Nam, mức thất thoát trung bình ở khu vực nông thôn khoảng 20–25%. Nghĩa là, cứ bốn mét khối nước được xử lý thì có ít nhất một mét khối bị mất do rò rỉ, đo đếm sai hoặc thất thu. Chi phí thất thoát này cuối cùng vẫn do nhà cung cấp gánh chịu, đẩy giá thành thực tế lên cao.
Ngoài ra, biến đổi khí hậu đang làm chi phí sản xuất nước sạch tăng nhanh. Ở Đồng bằng sông Cửu Long, mùa khô kéo dài, xâm nhập mặn sâu khiến hàng trăm trạm cấp nước phải ngừng hoạt động hoặc bơm nước từ xa với chi phí cao gấp nhiều lần. Trong khi đó, nguồn thu không đổi, giá bán bị khống chế, khiến các đơn vị vận hành không còn động lực duy trì.
Nếu không có cơ chế hỗ trợ tài chính, nhiều công trình sẽ buộc phải dừng hoạt động. Khi đó, người dân sẽ quay lại sử dụng nước giếng khoan, nước sông suối không qua xử lý, kéo theo nguy cơ ô nhiễm và bệnh tật gia tăng.
Rõ ràng, câu chuyện bù giá không chỉ là hỗ trợ tài chính, mà là bảo đảm quyền tiếp cận nước sạch - một dịch vụ thiết yếu và mang tính an sinh xã hội.
Bù giá là chìa khóa cho công bằng và phát triển bền vững
Cơ chế bù giá nước sinh hoạt là công cụ để Nhà nước điều tiết công bằng xã hội, giúp người dân nông thôn được hưởng dịch vụ thiết yếu mà không phá vỡ cân bằng tài chính của nhà cung cấp.
Thực tế, nếu áp dụng cơ chế giá thị trường hoàn toàn, hộ nghèo sẽ phải trả chi phí cao gấp nhiều lần thu nhập, dẫn đến mất khả năng tiếp cận nước sạch. Ngược lại, nếu giữ giá quá thấp mà không có bù đắp, hệ thống cấp nước không thể duy trì. Do đó, bù giá là giải pháp hài hòa lợi ích giữa người dân và nhà cung cấp, đồng thời tạo động lực cho đầu tư mới vào khu vực nông thôn.
Các chuyên gia cho rằng, bù giá phải đi kèm điều kiện rõ ràng: chỉ hỗ trợ cho những đơn vị cấp nước đạt chuẩn về chất lượng, giảm thất thoát và có quản lý minh bạch. Mô hình “giá xã hội – giá thương mại” được đề xuất như một hướng đi phù hợp: hộ dân nghèo được hưởng mức giá ưu đãi cho nhu cầu cơ bản (4–6 m³/tháng), phần tiêu dùng vượt mức áp dụng giá đầy đủ để bù lại.
Công trình cấp nước sạch tại tiểu khu Bờ xã Đà Bắc, tỉnh Phú Thọ bị bỏ hoang gần 20 năm. Ảnh: Yên San.
Song song đó, cần thành lập quỹ bù giá cấp tỉnh hoặc khu vực, huy động từ ngân sách địa phương, trung ương và các chương trình mục tiêu quốc gia. Quỹ này hoạt động minh bạch, có kiểm toán độc lập và gắn với tiêu chí hiệu quả cụ thể, tránh tình trạng “xin – cho” hoặc bao cấp tràn lan.
Khi được thiết kế đúng, cơ chế bù giá không chỉ giúp giữ nước chảy đều đến từng hộ dân, mà còn khuyến khích các địa phương đầu tư nâng cấp hệ thống, giảm thất thoát và chuyển đổi số trong quản lý mạng lưới.
Bù giá không phải bao cấp, mà là đầu tư cho tương lai
Nếu thiếu cơ chế bù giá, cái giá phải trả có thể còn lớn hơn rất nhiều: công trình xuống cấp, ngân sách phải chi khẩn cấp để khắc phục, bệnh tật do nước bẩn lan rộng, năng suất lao động giảm. Trong khi đó, một cơ chế bù giá minh bạch, đúng đối tượng lại mang lại lợi ích lâu dài về kinh tế, y tế và xã hội.
Nước sạch không chỉ là nhu cầu thiết yếu, mà còn là nền tảng của phát triển bền vững. Vì vậy, cần xem bù giá nước sinh hoạt nông thôn như một phần của chính sách an sinh, gắn với chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo đa chiều.
Nhà nước cần sớm ban hành khung hướng dẫn thống nhất về cơ chế bù giá, quy định cụ thể nguồn lực, tiêu chí, cách phân bổ và giám sát. Khi đó, bù giá sẽ không chỉ là khoản hỗ trợ tạm thời, mà trở thành công cụ chiến lược để bảo đảm nước sạch cho mọi người dân, mọi vùng miền.

![Dấu chân chính sách giảm nghèo: [Bài 4] Mục tiêu rõ ràng, kết quả ấn tượng](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/256w/files/trungtd/2025/10/03/4517-1c56eaee9d64173a4e75-173421_846.jpg)







![Dấu chân chính sách giảm nghèo: [Bài 4] Mục tiêu rõ ràng, kết quả ấn tượng](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/480w/files/trungtd/2025/10/03/4517-1c56eaee9d64173a4e75-173421_846.jpg)





![Dấu chân chính sách giảm nghèo: [Bài 4] Mục tiêu rõ ràng, kết quả ấn tượng](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/192w/files/trungtd/2025/10/03/4517-1c56eaee9d64173a4e75-173421_846.jpg)


