Đây là nội dung đặt ra tại Tọa đàm thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng bền vững thông qua "nhãn sinh thái", do Báo Tiền Phong phối hợp cùng Cục Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) tổ chức, ngày 27/8.
Số lượng cấp chứng nhận nhãn sinh thái còn hạn chế
Ông Lê Hoài Nam, Phó Cục trưởng Cục Môi trường cho biết, nhãn xanh, nhãn sinh thái là công cụ chính sách môi trường quan trọng, được nhiều quốc gia áp dụng thành công như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan hay các nước châu Âu.

Ông Lê Hoài Nam, Phó Cục trưởng Cục Môi trường cho biết, nhãn xanh, nhãn sinh thái là công cụ chính sách môi trường quan trọng. Ảnh: Nguyễn Hoài.
Công cụ này giúp doanh nghiệp chuyển đổi từ sản phẩm gây ô nhiễm sang sản phẩm xanh, đồng thời hỗ trợ người tiêu dùng tiếp cận hàng hóa thân thiện, bảo vệ sức khỏe.
Năm 2009, chương trình thí điểm về nhãn xanh được triển khai, tập trung vào hai nhóm sản phẩm được chứng nhận nhãn xanh Việt Nam và túi nilon thân thiện môi trường (gồm túi phân hủy và túi tái chế).
Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã ban hành tiêu chí cụ thể cho các nhóm này. Năm 2017, có 17 tiêu chí Nhãn xanh Việt Nam được công bố, làm căn cứ để chứng nhận Nhãn xanh Việt Nam đối với sản phẩm thân thiện với môi trường. Trong đó, 7 tiêu chí được áp dụng làm căn cứ chứng nhận Nhãn xanh Việt Nam đối với 112 loại sản phẩm. Trong hai năm 2024 và 2025 có thêm 13 sản phẩm được chứng nhận nhãn sinh thái.
Phân tích số lượng sản phẩm được chứng nhận nhãn sinh thái còn hạn chế, ông Nam cho rằng, nguyên nhân chủ yếu là do năng lực doanh nghiệp trong nước còn yếu, thiếu nguồn lực đổi mới công nghệ, chính sách ưu đãi chưa rõ ràng, nhiều quy định mới dừng ở luật mà thiếu văn bản hướng dẫn.
"Chẳng hạn, luật quy định thuế bảo vệ môi trường 40.000 đồng/kg đối với túi ni lông khó phân hủy, nhằm hạn chế sản xuất và khuyến khích túi sinh học. Tuy nhiên, trên thực tế nhiều cơ sở nhỏ lẻ vẫn trốn thuế và tiếp tục sản xuất loại túi này", ông Nam dẫn chứng.

Tọa đàm thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng bền vững thông qua "nhãn sinh thái" nhằm tháo gỡ khó khăn, tận dụng cơ hội và lan tỏa mạnh mẽ hơn nữa giá trị của nhãn sinh thái, góp phần bảo vệ môi trường xanh, sạch, đẹp và bền vững. Ảnh: Nguyễn Hoài.
Cần tạo ‘sân chơi’ hấp dẫn cho sản phẩm gắn nhãn sinh thái
Câu chuyện về nhãn sinh thái không phải mới, bởi ngay cả trước khi Luật Bảo vệ Môi trường và chính sách thuế, phí môi trường ra đời, vấn đề này đã được đề cập. Tuy nhiên, việc triển khai nhãn sinh thái hiện vẫn còn nhiều khía cạnh cần bàn.
Ông Nguyễn Trung Thắng, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và Môi trường cho rằng cần có một nhóm giải pháp tổng thể để phát triển thị trường sản phẩm gắn nhãn sinh thái, dựa trên hai hướng song song vừa kích cầu, vừa hỗ trợ phát triển nguồn cung.

Ông Nguyễn Trung Thắng, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và Môi trường cho rằng, cần có một nhóm giải pháp tổng thể để phát triển thị trường sản phẩm gắn nhãn sinh thái. Ảnh: Nguyễn Hoài.
Trong đó, Nhà nước cần tập trung hoàn thiện thể chế, tạo ra một "sân chơi" và hình thành thị trường đủ hấp dẫn cho sản phẩm gắn nhãn sinh thái.
Cụ thể, Nhà nước xây dựng các nhóm tiêu chí phù hợp cho từng ngành hàng, gắn với lộ trình chuyển đổi xanh và nhu cầu của người tiêu dùng trong nước để doanh nghiệp dễ áp dụng, còn người mua dễ nhận biết.
Đặc biệt, cần có chính sách và pháp luật tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình gắn nhãn sinh thái. Điều quan trọng là có một khung quy định rõ ràng, đồng bộ, ổn định, đi kèm với hướng dẫn thực thi cụ thể, giúp doanh nghiệp chủ động đáp ứng tiêu chí, giảm vướng mắc trong chứng nhận và đưa sản phẩm ra thị trường.
Ngoài ra, ông Thắng đề nghị cải cách thủ tục hành chính để doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận các dự án hỗ trợ, cũng như các nguồn vốn vay ưu đãi cho phát triển xanh. Việc đơn giản hóa hồ sơ, rút ngắn thời gian xử lí, tăng cường số hóa quy trình sẽ góp phần giảm chi phí tuân thủ, từ đó thúc đẩy cả phía cung lẫn cầu đối với sản phẩm gắn nhãn sinh thái. Nên cân nhắc chuyển giao vai trò cấp chứng nhận nhãn sinh thái cho các tổ chức độc lập, thay vì để cơ quan Nhà nước trực tiếp thực hiện.
Đồng quan điểm với TS. Nguyễn Trung Thắng, PGS.TS Nguyễn Thế Chinh - nghiên cứu viên cao cấp của Viện Khoa học Khí tượng thủy văn và Biến đổi khí hậu cho rằng, để thực hiện nhãn sinh thái, trước hết phải nhìn vào vai trò của doanh nghiệp – chủ thể trực tiếp.

PGS.TS Nguyễn Thế Chinh cho rằng, doanh nghiệp cần tiên phong trong phát triển sản phẩm nhãn sinh thái. Ảnh: Nguyễn Hoài.
Việc chuyển đổi từ sản phẩm chưa dán nhãn sang sản phẩm đạt nhãn sinh thái là quá trình dài, đòi hỏi đầu tư lớn về công nghệ, nguyên liệu, quy trình và nhận thức. Ông Chinh dẫn chứng: Son làm từ hoa hồng gắn nhãn sinh thái châu Âu có giá cao gấp nhiều lần sản phẩm thông thường, hay màn hình máy tính Nhật Bản phải từ ISO 9.000 nâng lên ISO 14.000 mới đạt tiêu chuẩn môi trường. Điều này đòi hỏi chi phí và công nghệ rất lớn.
Bên cạnh doanh nghiệp, thị trường tiêu dùng cũng có vai trò quan trọng, cần định hướng truyền thông, quảng bá để người dân tin tưởng và lựa chọn sản phẩm có nhãn sinh thái.
Yếu tố thứ ba là chính sách. Dù Luật Bảo vệ Môi trường và các văn bản hướng dẫn đã tạo khung pháp lý, nhưng việc triển khai vẫn còn độ trễ và nhiều điểm nghẽn. Theo ông, cần tăng cường sự liên kết giữa các chính sách, hình thành cơ chế rõ ràng để doanh nghiệp hiểu và đủ năng lực áp dụng nhãn sinh thái một cách thực chất.
Tăng chỉ số niềm tin của khách hàng với sản phẩm nhãn sinh thái
Theo bà Trịnh Thị Hồng Loan, đại diện Hiệp hội Các nhà bán lẻ Việt Nam, để mở rộng sản xuất và tiêu dùng sản phẩm gắn nhãn sinh thái, Việt Nam cần sớm hoàn thiện hành lang pháp lý, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp. Điều quan trọng là phải làm rõ quy trình công nhận, có cơ chế ưu đãi về thuế, thậm chí hỗ trợ chi phí gắn nhãn như một số quốc gia đang áp dụng mức 50%. Thực tế, sau 2 năm mới chỉ có 13 doanh nghiệp tham gia, cho thấy con số này còn quá khiêm tốn.

Bà Trịnh Thị Hồng Loan đề xuất, công tác truyền thông phải được đẩy mạnh để doanh nghiệp và người tiêu dùng hiểu lợi ích của sản phẩm xanh. Ảnh: Nguyễn Hoài.
Song song với chính sách, công tác truyền thông phải được đẩy mạnh để doanh nghiệp và người tiêu dùng, nhất là giới trẻ hiểu lợi ích của sản phẩm xanh: vừa giảm hóa chất độc hại, vừa bảo vệ môi trường. Một số doanh nghiệp đã bắt đầu chú trọng sản phẩm nhãn sinh thái và đưa ra chương trình giảm giá khuyến khích người mua.
Với vai trò của mình, Hiệp hội đã khuyến cáo hội viên giám sát chuỗi cung ứng, ưu tiên nhà cung cấp có sản phẩm gắn nhãn sinh thái, đồng thời kết nối với cơ quan chức năng nhằm phát triển nguồn hàng, tăng tính cạnh tranh và củng cố niềm tin khách hàng. Thời gian qua, Hiệp hội cũng phối hợp với lực lượng quản lý thị trường kiểm tra, giám sát để đảm bảo minh bạch, uy tín cho sản phẩm đã được chứng nhận.
Bà Loan nhấn mạnh, cùng với việc hỗ trợ doanh nghiệp, cần lan tỏa mạnh mẽ thói quen tiêu dùng xanh, đặc biệt là hạn chế sử dụng túi nilon, qua đó góp phần bảo vệ môi trường bền vững.