Đóng cửa mỏ khoáng sản là một yêu cầu bắt buộc trong chu trình khai thác khoáng sản nhằm đảm bảo an toàn, bảo vệ môi trường và khép lại vòng đời dự án theo đúng quy định pháp luật. Tuy nhiên, nếu được nhìn nhận dưới góc độ phát triển bền vững, đây còn là cơ hội để tái cấu trúc kinh tế, sử dụng hiệu quả tài nguyên đất đai và phục hồi hệ sinh thái cho các vùng từng bị khai thác.

Đoàn kiểm tra thực địa của Bộ Tài nguyên và Môi trường (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) kiểm tra nội dung đánh giá tác động môi trường của dự án khai thác đá ở Khánh Hòa (năm 2019). Ảnh: Văn Luyện.
Lồng ghép quy hoạch phục hồi mỏ vào chiến lược phát triển địa phương
Theo TS. Nguyễn Văn Luyện, giảng viên chính Viện nghiên cứu tài nguyên và biến đổi khí hậu, Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội, thực tế hiện nay cho thấy không ít doanh nghiệp sau khi dừng khai thác chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm đóng cửa mỏ, khiến nhiều khu vực khai thác bị bỏ lại trong tình trạng xáo trộn về địa hình, ô nhiễm môi trường và tiềm ẩn nguy cơ sạt lở, sụt lún.
Để khắc phục tình trạng này, ông nhấn mạnh cần lồng ghép kế hoạch đóng cửa mỏ và cải tạo phục hồi môi trường vào quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh, cấp vùng, đồng thời tái định hướng sử dụng đất sau khai khoáng theo hướng đồng bộ và dài hạn. Việc quy hoạch cần được thực hiện theo cách tiếp cận liên vùng, nhất là ở những khu vực có nhiều mỏ liền kề, nhằm xây dựng phương án sử dụng đất thống nhất, tránh manh mún, phân mảnh và chồng chéo mục đích sử dụng.
Lấy ví dụ cụ thể, TS. Luyện đề xuất, cụm mỏ than lộ thiên tại Hòn Gai - Cẩm Phả (Quảng Ninh) sau đóng cửa mỏ có thể được quy hoạch thành một tổ hợp công viên địa chất, hồ sinh thái và khu đô thị mới kết nối liên hoàn. Mô hình này không chỉ cải thiện môi trường mà còn mở ra các cơ hội phát triển dịch vụ, du lịch và thu hút đầu tư. Đồng thời, việc quy hoạch hợp lý còn giúp phòng tránh các rủi ro môi trường như sạt lở đất, sụt lún hoặc tái ô nhiễm nếu bố trí dân cư hoặc canh tác nông nghiệp trên nền đất chưa được xử lý triệt để.
TS. Luyện cũng cho rằng, bên cạnh quy hoạch, Nhà nước cần có chính sách ưu tiên chuyển đổi những khu mỏ đóng cửa sang các mục đích sử dụng hữu ích như khu bảo tồn thiên nhiên, khu công nghiệp nếu nền đất ổn định, trang trại năng lượng tái tạo (như điện mặt trời), hoặc khu du lịch mỏ, vốn là mô hình đã phát huy hiệu quả tại nhiều quốc gia có ngành công nghiệp khai khoáng phát triển.
Tuy nhiên, để các kế hoạch tái sử dụng đất sau khai thác được triển khai bền vững và đúng mục tiêu, không thể thiếu một yếu tố then chốt: cơ chế tài chính đồng hành lâu dài. Theo TS. Luyện, cần thành lập các quỹ chuyên biệt như Quỹ đóng cửa mỏ hoặc Quỹ phát triển vùng mỏ, được trích từ một phần doanh thu hoặc lợi nhuận hằng năm của doanh nghiệp khai thác trong suốt quá trình hoạt động, chứ không chỉ đóng tiền ký quỹ một lần đầu như hiện nay.

Hoạt động khai thác than lộ thiên ở Quảng Ninh. Ảnh: Lan Chi.
Nguồn vốn từ các quỹ này sẽ phục vụ cho các mục tiêu phục hồi và phát triển địa phương hậu khai thác: đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp cho lao động ngành mỏ, xây dựng hạ tầng cơ bản (điện, nước, giao thông), hỗ trợ mô hình sinh kế mới như trồng rừng, nuôi trồng thủy sản, phát triển du lịch cộng đồng… Cách tiếp cận này tương đồng với mô hình Quỹ chuyển đổi công bằng đang được áp dụng tại các vùng mỏ ở châu Âu để hỗ trợ quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh.
Một điểm quan trọng khác là các quỹ này cần được quản lý minh bạch, có sự tham gia của cả ba bên: chính quyền - doanh nghiệp - cộng đồng địa phương, bảo đảm rằng nguồn lực được sử dụng đúng mục đích và mang lại lợi ích thực chất.
Huy động công nghệ và liên kết đa ngành vì phát triển sau khai khoáng
Theo TS. Nguyễn Văn Luyện, công tác đóng cửa mỏ không thể thực hiện hiệu quả nếu chỉ là trách nhiệm riêng của ngành tài nguyên - khoáng sản. Quá trình này đòi hỏi sự phối hợp liên ngành và liên cấp, từ quy hoạch xây dựng, nông nghiệp, tài nguyên nước đến an sinh xã hội và giáo dục - đào tạo.
Do đó, cần thiết lập cơ chế phối hợp đa ngành giữa các sở, ban, ngành tại địa phương ngay từ giai đoạn phê duyệt đề án đóng cửa mỏ. Ví dụ, Bộ/Sở Xây dựng có thể tham gia đánh giá phương án cải tạo địa hình, bảo đảm an toàn cho các công trình dân sinh; Bộ/Sở Nông nghiệp và Môi trường có thể tư vấn phương án trồng cây phục hồi; trong khi Bộ/Sở Nội vụ cùng ngành giáo dục có thể xây dựng kế hoạch đào tạo nghề cho lao động địa phương.
Song song đó, việc huy động sự tham gia của cộng đồng dân cư, bao gồm đại diện người dân, chính quyền cấp xã/phường, là một nguyên tắc quan trọng để bảo đảm tính minh bạch, phù hợp và khả thi của các kế hoạch đóng cửa mỏ. Người dân cần được tham vấn về nhu cầu sử dụng đất, được cung cấp thông tin về các rủi ro môi trường còn tồn tại, và cùng giám sát quá trình cải tạo phục hồi môi trường tại địa phương mình.
TS. Luyện đề xuất việc thành lập Hội đồng đóng cửa mỏ tại mỗi địa phương có hoạt động khai thác, với sự tham gia đầy đủ của các cơ quan chuyên môn, đại diện cộng đồng và chuyên gia độc lập. Hội đồng này sẽ đóng vai trò thẩm định, giám sát và đánh giá độc lập toàn bộ quá trình đóng cửa mỏ, từ quy hoạch, thực hiện đến giám sát hiệu quả sau khai thác.
Một hướng đi quan trọng khác là ứng dụng công nghệ số trong giám sát hậu khai thác. Theo TS. Luyện, việc sử dụng các công cụ hiện đại như hệ thống thông tin địa lý (GIS), công nghệ viễn thám và trí tuệ nhân tạo (AI) sẽ giúp theo dõi biến động môi trường hiệu quả hơn, trên phạm vi rộng và trong thời gian dài.
Cụ thể, ảnh vệ tinh từ các nguồn như Landsat hoặc Sentinel có thể cung cấp dữ liệu định kỳ về sự thay đổi lớp phủ thực vật, giúp phát hiện sớm các khu vực phục hồi chậm hoặc tiềm ẩn nguy cơ. Dữ liệu GIS tích hợp bản đồ địa hình, hiện trạng sử dụng đất, mạng lưới dân cư và thủy văn sẽ hỗ trợ xây dựng các kịch bản sử dụng đất tối ưu. Đồng thời, mô hình học máy (machine learning) có thể dự báo rủi ro sạt lở dựa trên các yếu tố địa hình, mưa, thảm thực vật hoặc phân tích dữ liệu xã hội - kinh tế để dự đoán nguy cơ thất nghiệp, di cư sau khai thác.
Những công nghệ này không thể thay thế hoàn toàn vai trò kiểm tra thực địa, nhưng sẽ là công cụ hữu hiệu giúp nhà quản lý có cái nhìn toàn cảnh, đưa ra quyết định chính xác và kịp thời, giảm thiểu rủi ro và tối ưu hóa cơ hội phát triển vùng mỏ sau khai thác khoáng sản.
“Đóng cửa mỏ không nên chỉ được coi là điểm kết thúc một dự án khai thác, mà cần được nhìn nhận như một bắt đầu mới, một cơ hội để thiết kế lại tương lai của vùng đất từng gắn liền với tài nguyên khoáng sản. Với quy hoạch hợp lý, cơ chế tài chính linh hoạt, công nghệ hiện đại và sự phối hợp đồng bộ giữa các bên, quá trình này hoàn toàn có thể chuyển hóa “vết thương môi trường” thành hệ sinh thái kinh tế - xã hội bền vững, mang lại giá trị lâu dài cho địa phương và cộng đồng”, TS Luyện nhấn mạnh.