Tại nhiều quốc gia trên thế giới, những mỏ khoáng sản sau khai thác không chỉ được phục hồi môi trường mà còn trở thành điểm đến du lịch hấp dẫn, kết hợp giữa bảo tồn thiên nhiên và phát triển kinh tế. Việt Nam, với tiềm năng khoáng sản phong phú, đang đứng trước cơ hội học hỏi và áp dụng những mô hình này để biến các khu vực sau khai thác thành điểm du lịch cảnh quan độc đáo, góp phần thúc đẩy phát triển bền vững.

Trung Quốc biến vành đai gỉ sét thành vùng xanh. Ảnh: AGTN.
Biến mỏ cũ thành điểm du lịch sinh thái
Ở phía tây nước Đức, nơi từng là lòng chảo than khổng lồ của châu Âu, ngày nay là những hồ nước xanh ngắt, những cung đường đạp xe ven đồi và cả công viên giải trí rực rỡ sắc màu. Người dân địa phương gọi đó là "cuộc hồi sinh từ lòng đất”.
Mỗi năm, vùng Ruhr (Đức) đón hàng triệu du khách, không phải để nhìn lại một quá khứ ô nhiễm, mà để chiêm ngưỡng một chương mới - nơi các hố khai thác sâu hoắm được biến thành hồ nước sinh thái, nơi băng chuyền than cũ trở thành đường đi bộ lơ lửng trên không, và những ống khói khổng lồ được thắp sáng thành biểu tượng văn hóa.
Không chỉ Đức. Ở Trung Quốc, mỏ đá tại Thâm Quyến được tái thiết thành công viên địa chất quốc gia, còn Úc thì mời du khách lặn xuống hồ nước xanh nằm trong lòng mỏ sắt cũ. Những nơi từng bị gắn mác “bị bỏ rơi” nay là “nơi không thể bỏ qua” trên bản đồ du lịch thế giới.
Mỏ muối Wieliczka (Wieliczka Salt Mine) nằm ở thành phố Wieliczka trong khu đô thị Krakow phía Nam của Ba Lan. Mỏ muối này được khai thác từ thế kỷ XIII và hoạt động liên tục cho đến năm 2007, đây là một trong những mỏ muối hoạt động lâu đời nhất thế giới.
Từ năm 1978, UNESCO đã nhìn nhận cảnh quan của mỏ muối này là Di sản Thế giới và từ năm 1994, mỏ muối này trở thành Di sản Quốc gia của Ba Lan. Đây là một điểm đến du lịch hấp dẫn ở Krakow và thu hút 1,2 triệu khách tham quan du lịch hàng năm.
Điểm thu hút du khách đến đây thăm quan là có hàng chục bức tượng được thợ mỏ tạc bằng các khối muối của mỏ. Mỏ muối Wieliczka được các nhà điêu khắc và kiến trúc sư của Ba Lan kiến tạo như một thành phố thu nhỏ dưới lòng đất. Tại đây, du khách sẽ phải thán phục trước vẻ đẹp diệu kỳ của thiên nhiên, cũng như do bàn tay kỳ diệu của con người tạo ra.
Những căn phòng, điện thờ, nhà thờ thu nhỏ, cùng mọi vật dụng của thợ mỏ trong vòng 700 năm qua đã nói lên tất cả về cuộc sống, công việc và cuộc chiến thầm lặng với thiên nhiên của những người thợ mỏ. Du khách còn được trải nghiệm đi trong đường hầm của mỏ (với chiều dài khoảng 3, 2 km) bằng xe điện.
Rõ ràng ý tưởng sử dụng khu vực mỏ muối đã kết thúc khai thác làm điểm du lịch đã đem lại nguồn thu lớn hàng năm cho doanh nghiệp mỏ và ngành du lịch của Ba Lan. Đây là mô hình du lịch cảnh quan gắn kết với du lịch truyền thống bảo tồn mà những người thợ mỏ Ba Lan đã biết bảo vệ và sử dụng lợi thế mô hình du lịch này.
Đi trước một bước, hưởng trọn quả ngọt
Thế giới đã chứng minh, phục hồi môi trường sau khai thác khoáng sản không chỉ là trách nhiệm mà còn là cơ hội. Khi ngành mỏ kết hợp được với du lịch, di sản công nghiệp trở thành tài sản văn hóa.
Một vài nơi ở Quảng Ninh đang thử nghiệm hướng đi này. Những bãi thải than cũ được phủ xanh, xây dựng đường tham quan trải nghiệm. Nhưng đó mới chỉ là “mầm cây trong đá”, chưa đủ mạnh để nở rộ thành mô hình lan tỏa.
Ở Việt Nam, sau hàng chục năm khai thác khoáng sản, chúng ta vẫn chưa tìm được lời giải cho hàng trăm mỏ đá, mỏ than, mỏ kim loại đã ngưng hoạt động - những hố sâu trơ đáy, sườn núi loang lổ và đất hoang hóa cằn cỗi. Hầu hết được rào lại, quên lãng, hoặc trở thành bãi rác bất đắc dĩ.
Vậy tại sao không biến chúng thành công viên, hồ điều hòa, hay điểm đến du lịch địa chất? Câu trả lời không nằm ở thiếu ý tưởng - mà là thiếu cơ chế, thiếu sự phối hợp giữa các bộ ngành.

Khai trường khai thác mỏ đồng Sin Quyền (Lào Cai). Ảnh: Lan Chi.
Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp hoạt động khoáng sản ở Việt Nam qua đã mang lại hiệu quả kinh tế-xã hội rõ rệt, song tác động do việc đổ thải và hoàn thổ sau khai thác và tuyển do hoạt động khoáng sản đã ảnh hưởng đến môi trường là vấn đề cần được quan tâm. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy nếu thực hiện giải pháp gắn kết phục hồi môi trường sau khai thác khoáng sản với du lịch cảnh quan sẽ mang lại lợi ích kinh tế cao cho doanh nghiệp hoạt động khoáng sản và ngành du lịch các nước.
Để thực hiện giải pháp gắn kết phục hồi môi trường sau khai thác khoáng sản với du lịch cảnh quan tại một số vùng mỏ có lợi thế và tiềm năng ở Việt Nam một cách hiệu quả và khả thi nhằm mang lại lợi ích cho doanh nghiệp và địa phương có hoạt động khoáng sản, các Bộ, ngành, doanh nghiệp hoạt động khoáng sản cần có nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp gắn kết phục hồi môi trường sau khai thác khoáng sản với du lịch cảnh quan tại một số vùng mỏ có lợi thế và tiềm năng ở Việt Nam.
Trong điều kiện của Việt Nam, việc áp dụng mô hình gắn kết hoạt động khoáng sản với du lịch cảnh quan sẽ gặp nhiều khó khăn, song nếu được chú trọng triển khai chắc chắn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế, góp phần quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường trong hoạt động khai khoáng, đặc biệt sẽ góp phần đổi mới và phát triển ngành du lịch Việt Nam hội nhập với du lịch thế giới.
Trong khi đó, việc hoàn thổ và phục hồi môi trường sau khai thác khoáng sản đã được nhiều nước trên thế giới quan tâm và thực hiện từ hàng trăm năm nay nên kết quả bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản rất hiệu quả. Thay vì phải bỏ ra chi phí rất lớn để hoàn thổ và phục hồi môi trường, nhiều nước đã nghiên cứu thực hiện giải pháp gắn kết phục hồi môi trường sau khai thác khoáng sản với du lịch cảnh quan.
Công việc này được tiến hành ngay từ khi lập Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi và khả thi Dự án đầu tư khai thác khoáng sản, trong đó Ba Lan là nước tiêu biểu trong việc thực hiện giải pháp này. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới khi thực hiện giải pháp này đã mang lại lợi ích kinh tế cho doanh nghiệp mỏ và ngành du lịch và nâng cao hiệu quả bảo vệ môi trường.
Không chỉ là du lịch, mà là cần thay đổi tư duy. Nếu biết “kể chuyện” tốt, mỏ cũ có thể trở thành nơi lưu giữ ký ức khai hoang, nơi giới trẻ tìm về để hiểu về quá khứ phát triển của đất nước, thay vì quên lãng trong những dòng biên bản đóng mỏ. Đó là bài học lớn từ nước ngoài - không có di sản nào là vô dụng, chỉ có di sản không được kể đúng cách.