Sản xuất rong sụn tại vùng biển Quảng Ninh đang chuyển mình từ mô hình nhỏ lẻ, tự phát sang chuỗi giá trị khép kín với hạ tầng đồng bộ, ứng dụng công nghệ cao.
Hướng đi này không chỉ tạo ra giá trị kinh tế gia tăng cho người nuôi mà còn mở ra cánh cửa xuất khẩu bền vững, nhất là trong bối cảnh ngành nuôi biển đang được xác định là mũi nhọn phát triển kinh tế biển quốc gia.
Nền móng kỹ thuật cho chuỗi giá trị rong sụn
Tại xã Minh Châu, huyện Vân Đồn (Quảng Ninh), các chuyên gia từ Viện Nghiên cứu Hải sản, Viện Nuôi trồng hải sản STP cùng đại diện doanh nghiệp đã trực tiếp chia sẻ kiến thức kỹ thuật và thực tế sản xuất rong sụn cho các hộ nuôi biển trong khu vực. Đây là bước đi cụ thể nhằm từng bước xây dựng một chuỗi giá trị khép kín từ vùng nguyên liệu đến chế biến và tiêu thụ sản phẩm rong sụn đạt tiêu chuẩn quốc tế.

Vùng biển Quảng Ninh thích hợp để phát triển mô hình nuôi trồng rong sụn. Ảnh: Nguyễn Thành.
Rong sụn là loài rong biển có giá trị kinh tế cao, thích hợp cho chế biến thạch, thực phẩm chức năng và mỹ phẩm. Tuy nhiên, điều kiện tự nhiên miền Bắc đòi hỏi quy trình kỹ thuật nghiêm ngặt để đạt hiệu quả.
Theo các chuyên gia, vùng nuôi cần đảm bảo độ mặn ổn định, không bị tác động bởi dòng nước ngọt từ bờ, có dòng chảy tốt và nguồn nước sạch, không lắng bùn. Mùa vụ sản xuất rong sụn cũng được thiết kế theo điều kiện khí hậu đặc thù: từ tháng 3 đến tháng 11 là thời gian có thể nuôi thương phẩm, trong khi mùa đông chủ yếu dùng để giữ và nhân giống.
Đáng chú ý, các mô hình nuôi mới tại Vân Đồn đã bắt đầu ứng dụng hệ thống hạ tầng HDPE xanh, giúp ổn định khung giàn, hạn chế ô nhiễm nhựa và tối ưu hóa không gian canh tác. Một số hộ cũng thử nghiệm mô hình nuôi xen canh rong sụn với hàu, tận dụng nguồn dinh dưỡng và không gian mặt nước hiệu quả hơn. Đây là những tiền đề quan trọng để xây dựng vùng nguyên liệu lớn, ổn định và có khả năng kiểm soát chất lượng từ gốc.
Theo ông Nguyễn Văn Nguyên, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hải sản, tiềm năng nuôi rong sụn tại Quảng Ninh rất lớn: "Vùng Quảng Ninh có hệ thống đảo che chắn tốt, môi trường sạch, thích hợp nuôi xen canh rong sụn, hàu. Tuy nhiên, cần tổ chức nuôi quy mô lớn để khắc phục tình trạng cá ăn rong và tận dụng được điều kiện tự nhiên thuận lợi trong mùa vụ từ tháng 4 đến tháng 9".
Viện Nghiên cứu Hải sản hiện đã hoàn thiện công nghệ nuôi cây mô sẹo, đây là hướng đi mới giúp cải thiện giống, giảm suy thoái và nâng cao chất lượng đầu ra.
“Viện sẵn sàng chuyển giao công nghệ, đồng hành với doanh nghiệp và người dân để phát triển rong sụn thành đối tượng nuôi chủ lực ở miền Bắc”, ông Nguyên khẳng định.

Nhân viên STP Group chuẩn bị thả rong xuống biển để nuôi trồng. Ảnh: Nguyễn Thành.
Cùng với sự hỗ trợ từ cơ quan nghiên cứu, vai trò của doanh nghiệp trong xây dựng chuỗi khép kín được thể hiện rõ nét. Bà Nguyễn Thị Hải Bình, Tổng Giám đốc Tập đoàn STP, cho biết: “Chúng tôi đã phối hợp với Viện Hải sản, Viện Nuôi trồng thủy sản STP thực hiện nhiều mô hình thí điểm tại Vân Đồn. Hạ tầng kỹ thuật và công nghệ sẽ được chuyển giao 100% cho người dân, có mặt hỗ trợ 24/7 cùng hợp tác xã”.
Về vốn đầu tư, bà Bình thông tin doanh nghiệp đang hỗ trợ trả góp hạ tầng nuôi biển khoảng 300 triệu đồng/ha cho mô hình rong sụn xen canh với hàu. “Đây là bước đầu nhưng để nhân rộng, rất cần cơ chế vay vốn ưu đãi, dài hạn từ Nhà nước để chúng tôi có thể đầu tư bài bản, bền vững”, bà Bình nhấn mạnh.
Từ sơ chế đến truy xuất: Mắt xích quyết định cho xuất khẩu
Một trong những nút thắt lớn nhất trong phát triển rong sụn thời gian qua là khâu sau thu hoạch - nơi mà tổn thất chất lượng và giá trị kinh tế thường xảy ra. Nhằm khắc phục điểm yếu này, chương trình hợp tác giữa Sở Nông nghiệp và Môi trường Quảng Ninh với Tập đoàn STP đã giới thiệu mô hình sơ chế và bảo quản rong sụn ngay tại cơ sở. Việc này không chỉ giúp giữ nguyên chất lượng nguyên liệu mà còn đáp ứng yêu cầu truy xuất nguồn gốc - điều kiện bắt buộc của các thị trường cao cấp.

STP Group phối hợp cùng Viện Nghiên cứu Hải sản chia sẻ kiến thức kỹ thuật và thực tế sản xuất rong sụn cho các hộ nuôi biển. Ảnh: Nguyễn Thành.
Việc đầu tư vào cơ sở vật chất sơ chế tại chỗ, kết hợp với quy trình chuẩn hóa theo tiêu chuẩn HACCP, đang được xem là điểm đột phá. Sản phẩm sau sơ chế được bảo quản đúng cách, giảm tỷ lệ hao hụt, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp thu mua, chế biến sâu và xuất khẩu. Nếu không làm chủ được công đoạn này, chuỗi giá trị sẽ luôn bị đứt gãy giữa sản xuất và thương mại.
Đáng lưu ý, Quảng Ninh cũng đang từng bước thúc đẩy chuyển đổi mô hình nuôi rong từ truyền thống sang nuôi tuần hoàn xanh. Đây là yêu cầu then chốt trong việc hiện thực hóa các mục tiêu phát triển bền vững theo tinh thần Nghị quyết số 68-NQ/TW và Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về kinh tế biển. Chuỗi sản xuất hiện nay không chỉ chú trọng năng suất mà còn yêu cầu minh bạch nguồn gốc, giảm phát thải và không gây tổn hại đến hệ sinh thái biển.
Bà Bình khẳng định doanh nghiệp không chỉ hướng đến sản lượng mà chú trọng chất lượng, đầu ra ổn định: “Chúng tôi đang kết nối với các thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc, EU và Mỹ. Có sự đồng hành từ các tổ chức tài chính quốc tế, nên hoàn toàn tự tin đưa sản phẩm rong sụn Việt Nam vào chuỗi cung ứng toàn cầu”.
Theo đánh giá của các chuyên gia, để mô hình này phát huy hiệu quả, cần có sự tham gia đồng bộ từ quy hoạch vùng nuôi, hỗ trợ vốn, đào tạo nhân lực đến mở rộng thị trường tiêu thụ. Doanh nghiệp đóng vai trò điều phối chuỗi, trong khi người dân chính là mắt xích sản xuất đầu vào. Khi các bên được kết nối chặt chẽ, rong sụn nuôi trồng tại vùng biển Quảng Ninh hoàn toàn có thể xây dựng thương hiệu riêng và từng bước chinh phục thị trường quốc tế.