Trong bối cảnh đó, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã nêu rõ cần phải chủ động ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu, phát triển kinh tế xanh, kinh tế các-bon thấp, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính.
Điều này thể hiện rất rõ trong thời gian qua, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ luôn quan tâm chỉ đạo công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật về ứng phó với biến đổi khí hậu nhằm hướng tới một tương lai bền vững. Công tác chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện ứng phó với biến đổi khí hậu được triển khai kịp thời, các hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu mang lại hiệu quả. Trách nhiệm của chính quyền các cấp, doanh nghiệp, nhà đầu tư và nhận thức của nhân dân về ứng phó với biến đổi khí hạu ngày càng nâng cao. Hợp tác quốc tế được đẩy mạnh nhằm thu hút hỗ trợ kỹ thuật, nguồn vốn đầu tư ngoài nước cho phát triển xanh, giảm phát thải khí nhà kính và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Thể chế, chính sách tạo đòn bẩy chuyển biến hành động
Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường là kim chỉ nam cho các hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu của Việt Nam, tạo nền móng cho việc hoàn thiện thể chế, chính sách, tăng cường công tác quản lý nhà nước về biến đổi khí hậu.
Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, Luật Khí tượng thủy văn năm 2015 và các văn bản quy định chi tiết hướng dẫn thi hành đã bước đầu thiết chế các quy định quản lý nhà nước. Luật Bao vệ môi trường năm 2020 là dấu mốc quan trọng trong công tác quản lý nhà nước về biến đổi khí hậu. Luật đã bổ sung các quy định về thích ứng với biến đổi khí hậu, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, bảo vệ tầng ozone; quy định rõ về kiểm kê khí nhà kính, các lĩnh vực, cơ sở phải thực hiện kiểm kê khí nhà kính; quy định lồng ghép nội dung ứng phó với biến đổi khí hậu vào chiến lược, quy hoạch; cơ sở dữ liệu quốc gia về biến đổi khí hậu; Báo cáo quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu; thực hiện các cam kết quốc tế về biến đổi khí hậu và bảo vệ tầng ozone.
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tham dự Sự kiện về Rừng và Sử dụng đất trong khuôn khổ Hội nghị COP26. Ảnh: DCC.
Luật đã chế định về tổ chức và phát triển thị trường carbon như là công cụ để thúc đẩy mục tiêu giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, góp phần thực hiện những đóng góp do Việt Nam cam kết. Luật cũng xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức, cá nhân trong kiểm kê khí nhà kính, giảm phát thải khí nhà kính, bảo vệ tầng ozone, thích ứng với biến đổi khí hậu. Việc nội luật hóa các quy định quốc tế tạo nền tảng để thực hiện các chiến lược, kế hoạch ứng phó với biến đổi khí hậu tại Việt Nam cũng như thực hiện các cam kết quốc tế hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Chính phủ đã ban hành 4 Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật về nội dung ứng phó với biến đổi khí hậu, gồm quy định giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozone (năm 2022 và sửa đổi, bổ sung năm 2025); quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có quy định về nguồn lực cho ứng phó với BĐKH (năm 2022 và sửa đổi, bổ sung năm 2025); xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường có quy định xử phạt vi phạm hành chính về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn (năm 2022). Chính phủ đã ban hành 5 Nghị quyết về ứng phó với biến đổi khí hậu và trao đổi kết quả giảm nhẹ phát thải, tín chỉ carbon với quốc tế. Thủ tướng Chính phủ ban hành nhiều Quyết định về công tác kiểm kê khí nhà kính, bảo vệ tầng ozone, thích ứng với biến đổi khí hậu. Trong đó, Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu được ban hành đề ra lộ trình dài hạn về giảm phát thải khí nhà kính và thích ứng với biến đổi khí hậu, hướng tới mục tiêu đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Ban chi đạo quốc gia triển khai thực hiện các cam kết của Việt Nam tại COP 26 đã quán triệt nhiều giải pháp quan trọng tới các Bộ, ngành, địa phương. Ảnh: DCC.
Hệ thống quốc gia về kiểm kê khí nhà kính đã được Thủ tướng Chính phủ ban hành từ năm 2015 để Việt Nam từng bước tiếp cận với các quy định quốc tế về kiểm kê khí nhà kính. Triển khai thi hành Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, Bộ đã ban hành đầy đủ các Thông tư quy định chi tiết thi hành Luật. Các Bộ, ngành cũng đã ban hành các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn kỹ thuật theo quy định của luật, nghị định và Kế hoạch giảm phát thải khí nhà kính của ngành, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý.
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Kế hoạch quốc gia thích ứng với biến đổi khí hậu giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (năm 2020 và cập nhật năm 2024); Hệ thống giám sát và đánh giá hoạt động thích ứng với BĐKH cấp quốc gia (năm 2022); Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050 (năm 2022); Kế hoạch hành động giảm phát thải khí methan đến năm 2030 (năm 2022); Kế hoạch quốc gia về quản lý, loại trừ các chất làm suy giảm tầng ozone, chất gây hiệu ứng nhà kính được kiểm soát (năm 2024); Chỉ thị về tăng cường công tác quản lý tín chỉ carbon nhằm thực hiện Đóng góp do quốc gia tự quyết định (năm 2024). Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã ban hành nhiều văn bản cụ thể hóa việc thực hiện các chiến lược, kế hoạch, đề án về ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo vệ tầng ozone và các văn bản hướng dẫn kỹ thuật.
Đến nay, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã xây dựng và thực hiện Kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu; quán triệt các nhiệm vụ, giải pháp thực hiện giảm phát thải khí nhà kính, từng bước thực hiện cam kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Nhiều địa phương đã tích cực phát triển các dự án phát thải thấp, các dự án nâng cao sức chống chịu khí hậu; các dự án phát triển đô thị thông minh, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Ông Tăng Thế Cường, Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu và bà Michele Wee, Tổng Giám đốc Standard Chartered Việt Nam ký Biên bản ghi nhớ hợp tác với sự chứng kiến của lãnh đạo cơ quan chủ quản 2 bên.
Trên cơ sở tham mưu đôn đốc thực hiện cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP26, các tổ chức ngân hàng trong nước và quốc tế tại Việt Nam đã đồng hành với Chính phủ thực hiện ứng phó với biến đổi khí hậu và chuyển đổi xanh; tích cực vào cuộc thực hiện nhiều dịch vụ, sản phẩm cùng với các gói tín dụng xanh, cho vay xanh. Các tập đoàn nhà nước đã đi đầu trong nghiên cứu, phát triển các nguồn năng lượng mới, thực hiện chuyển đổi xanh. Các doanh nghiệp cũng đẩy mạnh chuyển đổi số, chuyển đổi xanh trong hoạt động quản lý, điều hành, tiết kiệm năng lượng, nguyên vật liệu, giảm phát thải khí nhà kính. Các tập đoàn, công ty tư nhân cũng đã triển khai mạnh mẽ các hoạt động giảm phát thải, chuyển đổi xanh, có kế hoạch trung hòa carbon.
Trước đó, Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu được tổ chức triển khai trên phạm vi cả nước đã tạo được sự lan tỏa các hành động ứng phó với biến đổi khí hậu ở các Bộ, ngành và địa phương. Chương trình hỗ trợ ứng phó với biến đổi khí hậu (SP-RCC) được triển khai từ năm 2010, với sự tham gia của 10 Bộ, ngành và nhiều đối tác quốc tế, đã triển khai nhiều dự án ở hầu hết các tỉnh, thành phố trên cả nước. Qua đó, gần 400 hành động chính sách liên quan đến ứng phó với biến đổi khí hậu đã được xây dựng và thực hiện ở các bộ, ngành, địa phương; huy động nguồn lực hơn 1,5 tỷ USD từ các nhà tài trợ để hòa vào ngân sách Nhà nước phục vụ công tác ứng phó với BĐKH ở Việt Nam.
Những dấu ấn quốc tế
Nhận thức rõ những tác động nghiêm trọng của biến đổi khí hậu đến sự phát triển bền vững của đất nước, Việt Nam đã sớm ký tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC) năm 1992 và phê chuẩn Công ước năm 1994; ký Nghị định thư Kyoto năm 1998 và phê chuẩn năm 2002; phê chuẩn sửa đổi, bổ sung Doha vào Nghị định thư Kyoto năm 2015. Chính phủ phê duyệt Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu và ban hành Kế hoạch thực hiện năm 2016, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trong nỗ lực ứng phó biến đổi khí hậu toàn cầu. Đối với công tác bảo vệ tầng ozone, Việt Nam tham gia Công ước Vienna và Nghị định thư Montreal từ năm 1994, phê chuẩn chuẩn Bản sửa đổi, bổ sung Kigali thuộc Nghị định thư Montreal về kiểm soát và loại trừ các chất hydrofluorocarbon (HFC) năm 2019.
Cho đến nay, Việt Nam đã tham gia 19 điều ước, thỏa thuận quốc tế trong lĩnh vực biến đổi khí hậu. Tại COP26, Việt Nam đã cam kết đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050, giảm phát thải khí methan 30% vào năm 2030 so với năm 2020. Sau COP26, Thủ tướng Chính phủ đã thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia triển khai thực hiện cam kết tại COP26.
Đến năm 2025, Việt Nam đã tham gia 19 điều ước, thỏa thuận quốc tế trong lĩnh vực biến đổi khí hậu. Ảnh: DCC.
Việt Nam là một trong những quốc gia sớm xây dựng Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) năm 2015 và rà soát, cập nhật năm 2020 và năm 2022 thể hiện nỗ lực và trách nhiệm cao trong ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu. Theo NDC cập nhật năm 2022, Việt Nam đặt mục tiêu giảm 15,8% lượng phát thải khí nhà kính so với kịch bản phát triển thông thường bằng nguồn lực trong nước và có thể giảm tới 43,5% nếu có sự hỗ trợ của quốc tế. Theo quy định của quốc tế, NDC đang được tiếp tục rà soát, cập nhật cho giai đoạn 2026 - 2035 (NDC3.0).
Công tác bảo vệ tầng ozone cũng đã được đẩy mạnh được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Việt Nam thực hiện nghiêm túc các cam kết quốc tế, đã loại trừ hoàn toàn CFC, Halon, CTC từ năm 2010; loại trừ HCFC-141b nguyên chất trong sản xuất xốp từ năm 2015; chỉ cho phép sử dụng methyl bromide cho mục đích kiểm dịch nông nghiệp; thực hiện nghiêm lộ trình loại trừ các chất HCFC để tiến tới loại trừ hoàn toàn vào năm 2040.
Nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm trong thời gian tới
Trước xu thế biến đổi khí hậu và bối cảnh toàn cầu mới, Việt Nam đã chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu thông qua việc hoàn thiện thể chế, chính sách; công tác chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện ứng phó với biến đổi khí hậu khá kịp thời. Các chương trình, dự án ứng phó với biến đổi khí hậu mang lại hiệu quả nhất định, góp phần giảm phát thải khí nhà kính, tăng cường khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu của cộng đồng.
TS Tăng Thế Cường, Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu cho biết, dự kiến Luật Biến đổi khí hậu sẽ được xây dựng và trình Quốc hội xem xét, thông qua vào năm 2029. Ảnh: DCC.
Các cam kết của Việt Nam về ứng phó với biến đổi khí hậu được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, tuy nhiên để hiện thực hóa các cam kết đó đòi hỏi phải tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách, huy động hỗ trợ của quốc tế về nguồn lực tài chính, chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản trị. Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về ứng phó biến đổi khí hậu, phát huy hiệu quả việc sử dụng các nguồn lực trong bối cảnh mới, một số giải pháp, nhiệm vụ trọng tâm, đột phá trong ứng phó với biến đổi khí hậu thời gian tới được đề xuất như sau:
Thứ nhất, nghiên cứu xây dựng Nghị quyết chuyên đề về bảo vệ môi trường và ứng phó với BĐKH để trình Ban Chấp hành Trung ương vào năm 2027, nhằm thực hiện Kết luận số 81-KL/TW ngày 4/6/2024 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.
Thứ hai, nghiên cứu đề xuất và xây dựng Luật biến đổi khí hậu để trình Quốc hội xem xét, thông qua vào năm 2029 nhằm thể chế hóa đầy đủ các chủ trương của Đảng về trung hòa carbon, bảo vệ tầng ozone và thích ứng với biến đổi khí hậu; tạo khung pháp lý đồng bộ, thống nhất về thích ứng với biến đổi khí hậu, giảm phát thải và tăng cường hấp thụ khí nhà kính trong các lĩnh vực của nền kinh tế, thúc đẩy các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân tham gia.
Thứ ba, hoàn thiện các quy định pháp lý về trao đổi kết quả giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon với quốc tế, làm cơ sở triển khai hợp tác trao đổi kết quả giảm phát thải và tín chỉ carbon với các đối tác quốc tế. Triển khai phân bổ hạn ngạch phát thải khí nhà kính cho các cơ sở phát thải khí nhà kính, tổ chức vận hành thị trường carbon trong nước đồng thời với việc triển khai thực hiện các cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ carbon.
Thứ tư, tham mưu các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu ở các khu vực dễ bị tổn thương, chịu nhiều tác động của biến đổi khí hậu; các giải pháp phát triển hạ tầng thích ứng với biến đổi khí hậu. Kịch bản biến đổi khí hậu được cập nhật chi tiết cho các địa phương theo địa giới hành chính mới làm cơ sở phục vụ đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đến các ngành, lĩnh vực, khu vực và sử dụng trong quá trình xây dựng và cập nhật chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển. Hoàn thiện Hệ thống giám sát và đánh giá hoạt động thích ứng với biến đổi khí hậu cấp quốc gia, cơ sở dữ liệu quốc gia về biến đổi khí hậu.
Thứ năm, triển khai thực hiện tốt các cam kết ứng phó với biến đổi khí hậu, trong đó tập trung xây dựng và triển khai thực hiện NDC giai đoạn 2026 - 2035; thực hiện Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu hướng tới mục tiêu đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 và các kế hoạch hành động quốc gia về giảm phát thải khí nhà kính, bảo vệ tầng ozone, thích ứng với biến đổi khí hậu.

























