Bệnh sỏi thận là một trong những căn bệnh phổ biến nhất của hệ tiết niệu, gây ra nhiều đau đớn và biến chứng. Thế nhưng, khi Bệnh viện đa khoa vùng Tây Nguyên sử dụng máy tán sỏi đã hỏng hóc để điều trị cho 255 bệnh nhân, suốt một thời gian dài mới bị tố giác, khiến nhiều bệnh nhân hoài nghi về thực hư của bệnh sỏi thận. Vậy thì, cần hiểu bệnh sỏi thận ra sao?

Bệnh sỏi thận thường kèm theo những cơn đau vùng hông lưng. Ảnh: TL
Nói dễ hiểu, bệnh sỏi thận là tình trạng các tinh thể khoáng chất trong nước tiểu kết tụ lại, hình thành nên những viên sỏi cứng trong thận hoặc đường tiết niệu. Sỏi thận có thể nhỏ như hạt cát, nhưng cũng có khi to bằng ngón tay, thậm chí chiếm gần toàn bộ bể thận, gây tắc nghẽn và tổn thương nghiêm trọng. Việc nhận biết sớm và điều trị đúng cách đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ chức năng thận và phòng tránh suy cơ suy thận hay nhiễm trùng đường tiểu.
Trong giai đoạn đầu, bệnh sỏi thận thường không có biểu hiện rõ ràng, vì những viên sỏi nhỏ có thể di chuyển trong thận mà không gây đau. Tuy nhiên, khi sỏi lớn dần hoặc di chuyển xuống niệu quản khiến dòng nước tiểu bị cản trở, người bệnh bắt đầu xuất hiện các triệu chứng khó chịu.
Dấu hiệu đầu tiên thường là đau vùng hông lưng, đặc biệt là một bên, cơn đau có thể lan xuống vùng bụng dưới, háng hoặc cơ quan sinh dục. Cơn đau sỏi thận được mô tả là đau quặn từng cơn, rất dữ dội, khiến người bệnh không thể đứng yên hay nằm yên.
Ngoài ra, nước tiểu có thể bị biến đổi, trở nên đục, có mùi hôi, hoặc có lẫn máu do viên sỏi cọ xát vào niêm mạc đường tiểu. Một số người bệnh còn gặp phải triệu chứng tiểu buốt, tiểu rắt, tiểu khó, thậm chí buồn nôn, nôn ói khi sỏi gây kích thích mạnh hoặc khi đau quặn thận dữ dội. Trong những trường hợp sỏi gây tắc nghẽn nặng, người bệnh có thể bị bí tiểu, kèm theo sốt cao, rét run, báo hiệu nhiễm trùng đường tiết niệu - một tình trạng cần cấp cứu ngay.
Một số người có thể phát hiện bệnh sỏi thận tình cờ khi đi siêu âm bụng định kỳ, vì bệnh có thể tiến triển âm thầm trong thời gian dài. Chính vì vậy, những người có yếu tố nguy cơ như uống ít nước, ăn mặn, ăn nhiều đạm động vật, làm việc trong môi trường nóng bức, hoặc có người thân bị sỏi thận nên kiểm tra sức khỏe định kỳ 6-12 tháng/lần để phát hiện sớm.
Sỏi thận hình thành khi có sự mất cân bằng trong quá trình hòa tan các khoáng chất của nước tiểu. Khi lượng canxi, oxalat, urat hoặc cystine quá cao mà không được đào thải kịp, chúng sẽ kết tinh thành tinh thể nhỏ, rồi dần lớn lên thành sỏi.
Nguyên nhân thường gặp gồm những trường hợp. Uống ít nước, khi lượng nước tiểu ít, các khoáng chất dễ cô đặc và lắng đọng. Ăn quá mặn, quá nhiều thịt đỏ, thực phẩm chứa nhiều oxalat (như rau bina, khoai tây, trà đặc, chocolate) hoặc uống nhiều nước ngọt có ga. Một số người có rối loạn hấp thu canxi hoặc axit uric, khiến nồng độ các chất này trong nước tiểu tăng cao.
Bệnh sỏi thật cũng xuất hiện ở những người có bệnh lý nền như Gout, nhiễm trùng đường tiểu mạn tính, bệnh tuyến cận giáp… Tuy nhiên, bệnh sỏi thận chủ yếu do lối sống ít vận động, đặc biệt là ở người làm việc văn phòng, khiến quá trình trao đổi chất chậm và cặn khoáng tích tụ trong cơ thể.
Cách phòng bệnh hiệu quả nhất là thay đổi lối sống và chế độ dinh dưỡng. Trước hết, uống đủ nước là điều quan trọng hàng đầu. Một người trưởng thành nên uống ít nhất 2-2,5 lít nước mỗi ngày (hoặc nhiều hơn nếu lao động ngoài trời). Nước giúp pha loãng nước tiểu, ngăn cặn khoáng kết tinh.
Kế đến là chế độ ăn cân bằng: hạn chế muối, giảm lượng thịt đỏ, tránh ăn quá nhiều thực phẩm chứa oxalat (như rau chân vịt, củ dền, khoai tây chiên), đồng thời tăng cường rau xanh, trái cây, ngũ cốc nguyên cám. Người có sỏi canxi không nên kiêng hoàn toàn canxi, vì thiếu canxi có thể khiến oxalat trong ruột hấp thu nhiều hơn. Thay vào đó, nên bổ sung canxi từ thực phẩm tự nhiên như sữa chua, cá nhỏ ăn cả xương.
Ngoài ra, duy trì cân nặng hợp lý, tập thể dục đều đặn, và không nhịn tiểu lâu cũng giúp giảm nguy cơ sỏi. Những người từng bị sỏi cần được theo dõi định kỳ bằng siêu âm hoặc chụp X-quang, vì sỏi rất dễ tái phát nếu không điều chỉnh thói quen sinh hoạt.
Về điều trị bệnh sỏi thận, tùy kích thước và vị trí của sỏi, để chọn phương pháp điều trị phù hợp. Với sỏi nhỏ (<5mm), người bệnh thường được khuyến khích uống nhiều nước, vận động nhẹ và dùng thuốc giúp giãn cơ trơn niệu quản, giảm đau, lợi tiểu để viên sỏi tự thoát ra ngoài.
Với sỏi trung bình (5-10mm), có thể dùng thuốc hỗ trợ và theo dõi trong vài tuần; nếu không ra được, sẽ cần can thiệp. Với sỏi lớn (>10mm) hoặc gây tắc nghẽn, đau quặn thận tái diễn, bác sĩ thường chỉ định tán sỏi hoặc phẫu thuật.
Phương pháp tán sỏi ngoài cơ thể (ESWL) là kỹ thuật phổ biến, dùng sóng xung kích từ bên ngoài tập trung vào viên sỏi để phá vỡ nó thành những mảnh nhỏ, giúp chúng dễ dàng thoát ra theo nước tiểu. Ưu điểm là ít xâm lấn, không cần mổ, bệnh nhân hồi phục nhanh. Tuy nhiên, không phải ai cũng phù hợp, nhất là người có sỏi quá cứng, quá lớn, hoặc nằm ở vị trí khó chiếu sóng.
Bên cạnh đó, có những kỹ thuật tán sỏi nội soi. Trong đó, tán sỏi nội soi ngược dòng bằng laser, bác sĩ đưa ống nội soi nhỏ qua niệu đạo, tiếp cận trực tiếp viên sỏi và dùng laser phá vụn. Còn tán sỏi qua da, áp dụng cho sỏi lớn hoặc phức tạp, bác sĩ tạo một đường nhỏ ở lưng để đưa ống nội soi vào thận và lấy sỏi ra. Hai phương pháp này tuy xâm lấn hơn tán ngoài cơ thể, nhưng hiệu quả cao, ít để lại sỏi sót.
Trong trường hợp đặc biệt, khi sỏi quá lớn hoặc gây tổn thương thận nặng, người bệnh có thể cần phẫu thuật mở để lấy sỏi. Hiện nay, nhờ công nghệ hiện đại, tỉ lệ phải mổ mở đã giảm đáng kể.
Sau khi được lấy sỏi, người bệnh cần tiếp tục duy trì chế độ sinh hoạt lành mạnh. Uống nhiều nước, tái khám định kỳ và kiểm tra nước tiểu giúp phát hiện sớm sự hình thành sỏi mới. Một số người có cơ địa dễ tạo sỏi (do rối loạn chuyển hóa) cần dùng thuốc điều chỉnh lâu dài.
Bệnh sỏi thận cũng có thể nhận biết dễ dàng, nếu không chủ quan với những cơn đau lưng hoặc tiểu buốt thoáng qua, vì đó có thể là dấu hiệu sỏi đang hình thành. Việc điều trị sớm bệnh sỏi thận rất đơn giản, ít tốn kém và hạn chế tổn thương.