
Vùng Bảy Núi xanh mướt nhìn từ xa, thành quả của hơn 30 năm phủ xanh đồi trọc, phục hồi sinh thái và tạo dựng vùng đệm sinh kế cho người dân biên giới An Giang. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.
Từ núi trọc đến rừng xanh
An Giang là tỉnh đầu nguồn ĐBSCL, một trong số ít tỉnh đồng bằng có diện tích rừng tự nhiên đáng kể với gần 100.000 ha, tập trung tại vùng Bảy Núi (An Giang cũ), Phú Quốc, Hà Tiên, Hòn Đất, U Minh Thượng, và Kiên Hải (An Giang mới). Riêng ở vùng Bảy Núi, nơi đây có trên 40.000 hộ dân, gần một nửa là đồng bào dân tộc Khmer sinh sống.
Tuy nhiên, trước thập niên 1990, phần lớn diện tích rừng này chỉ còn là đồi núi trọc. Thời điểm ấy, người dân đốt rừng làm rẫy, chiến tranh để lại nhiều hệ lụy, cùng với thời tiết khô hạn khiến cháy rừng trở thành hiểm họa thường niên.
Ông Chau Phonl, người dân tộc Khmer ở xã Tri Tôn nhớ lại: Hồi đó, khắp núi đồi chỉ thấy toàn là cỏ tranh, không có cây rừng, không có bóng mát, đất đai khô cằn. Mỗi khi trời nổi gió mạnh gặp tàn lửa là cỏ tranh cháy lan rất nhanh, cháy rực cả sườn núi, nhiều khi cháy cả tuần chưa dập được.
Thường vào mùa khô, bà con quanh vùng sống trong lo sợ vì chỉ cần một tàn thuốc, một cây nhang của khách hành hương sơ ý cũng đủ để bùng phát một vụ cháy rừng lớn. Mỗi năm có khi xảy ra đến vài vụ, thiêu rụi cả chục ha đất rừng vốn đã cằn cỗi. Những ký ức ấy đến nay vẫn còn in đậm trong tâm trí của nhiều thế hệ người dân Bảy Núi.
Ông Thái Văn Nhân, Giám đốc Ban quản lý rừng phòng hộ và đặc dụng tỉnh An Giang, nhớ lại: Trước đây, do hậu quả chiến tranh và tập quán canh tác cũ, đất rừng ở vùng Bảy Núi bị tàn phá nặng nề. Hàng năm đều có cháy rừng. Trước thực trạng đó, từ năm 1991, tỉnh An Giang đã mạnh dạn ban hành chính sách khôi phục lại rừng phòng hộ đồi núi. Đến năm 1993, nhờ sự hỗ trợ từ Chương trình 327 của Trung ương, hai dự án lớn đã được triển khai, dự án trồng rừng phòng hộ và dự án rừng vành đai biên giới.
Một trong những bước đột phá giúp phủ xanh vùng Bảy Núi chính là chính sách giao khoán rừng cho dân. Từ đầu những năm 1990 đến nay, Ban quản lý rừng phòng hộ và đặc dụng tỉnh An Giang đã giao rừng cho người dân trồng, chăm sóc và bảo vệ dài hạn, hợp đồng từ 10 đến 50 năm.
Ông Nhân cho biết, đến nay, Ban quản lý rừng phòng hộ và đặc dụng tỉnh An Giang đã giao khoán cho hơn 12.700 hộ dân. Không có sự đồng hành của bà con thì không thể nào có được cánh rừng xanh tốt như hiện nay.

Cán bộ Ban quản lý rừng phòng hộ và đặc dụng tỉnh An Giang cùng người dân kiểm tra sinh trưởng của cây rừng, một phần trong hoạt động quản lý, bảo vệ và phát triển rừng bền vững theo mô hình giao khoán. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.
Mô hình giao khoán rừng thành công
Ông Phan Văn Hải (xã Núi Cấm) là một trong những nông dân đầu tiên xung phong nhận khoán rừng từ năm 1992. Sinh ra ở vùng đồng bằng, ông lên núi lập nghiệp trong cảnh tay trắng, từng thuê đất rẫy để sống qua ngày. Khi có chính sách giao đất rừng, ông Hải nhận 5ha trồng rừng, sau đó mở rộng dần đến gần 20 ha.

Ông Đào Duy Mẫn (xã Núi Cấm) chăm sóc đàn nai dưới tán rừng, hướng chăn nuôi kết hợp trồng rừng cho thu nhập ổn định, góp phần bảo vệ môi trường rừng tại Bảy Núi. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.
Ông Hải chia sẻ: Lúc đó gia đình lên đây khó khăn lắm, mỗi công chỉ được hỗ trợ 15.000 đồng tiền công chăm sóc rừng. Nhưng nhờ kiên trì, ông đã trồng được hàng chục nghìn cây tràm, keo, sao, dầu... Bây giờ nhìn lại rừng xanh tốt, ông Hải thấy rất tự hào, mãn nguyện vì rừng đang trong quá trình cho thu hoạch để có kinh tế nuôi gia đình và con cái ăn học.
Không dừng lại ở việc trồng rừng, khai thác rừng, ông còn tận dụng khoảng trống dưới tán cây để trồng rau màu, nuôi bò, dần ổn định cuộc sống và có nguồn thu nhập khá. Những năm gần đây, khi rừng khép tán, ông chú trọng hơn đến bảo vệ rừng và trồng cây ăn trái thích hợp như cam, quýt, xoài.
“Trồng rừng không chỉ để sống mà còn là trách nhiệm với môi trường, với tương lai con cháu. Có cây, có nước, khí hậu mát mẻ, sống cũng khỏe mạnh hơn”, ông Hải nói.
Cùng với ông Hải, hàng ngàn hộ dân khác cũng đã trở thành “chủ rừng” thực thụ. Điển hình như ông Đào Duy Mẫn (xã Núi Cấm), vốn là người từ ở miền Trung vào Nam lập nghiệp, ban đầu làm thuê gánh mướn, giờ đã sở hữu 16 ha rừng trồng sau gần 30 năm nhận khoán đất rừng.
Ông Mẫn phấn khởi nói: Làm rừng cực lắm, phải thường xuyên tỉa cành, phát cỏ. Nhưng bù lại, có đất canh tác, có nguồn thu từ cây ăn trái và nuôi nai. Giờ sống thoải mái, còn góp phần giữ gìn môi trường rừng an toàn, đặc biệt trong mùa khô không để xảy ra các vụ cháy rừng hay người dân vô phá rừng bừa bãi.
Không chỉ bảo vệ rừng, trồng cây rừng, cây ăn trái, mà nghề chăn nuôi dưới tán rừng cũng phát triển mạnh tại vùng Bảy Núi. Anh Chau Vui (xã Châu Lăng), một hộ Khmer cho biết: Trước kia sống nhờ trồng rẫy dưới tán rừng, giờ rừng khép tán thì chuyển sang nuôi bò, nuôi dê. Mỗi năm bán 4 con bò và hàng chục con dê cũng lãi gần 60-70 triệu đồng/năm, vì vậy cuộc sống khá thoải mái và xây được căn nhà cấp 4 cho gia đình.
Tại xã Thới Sơn, ông Trần Văn Bền trồng xoài, cây hồng quân xen dưới tán rừng, mỗi năm thu gần 200 triệu đồng, nên cuộc sống ổn định, không còn lo đói kém như xưa.
Một hướng đi mới, bền vững đang được địa phương khuyến khích là phát triển cây dược liệu dưới tán rừng. Ba năm gần đây, Ban quản lý rừng phòng hộ và đặc dụng tỉnh An Giang còn phối hợp với các tổ chức khác xây dựng mô hình trồng cây ngải đen, huyền, đinh lăng… ở các xã vùng núi để giúp người dân có thêm thu nhập.
Ông Nguyễn Minh Đức (ấp Núi Két, xã Thới Sơn) cho biết: Các loại dược liệu này sống rất tốt dưới tán rừng. Không cần chăm sóc cầu kỳ mà vẫn thu được hiệu quả. Nhờ vậy bà con có thêm thu nhập, lại không ảnh hưởng đến rừng.

Ông Nguyễn Minh Đức (ấp Núi Két, xã Thới Sơn) giới thiệu vườn cây đinh lăng phát triển tốt dưới tán rừng – mô hình trồng dược liệu dưới tán rừng đang mở ra cơ hội làm giàu từ kinh tế lâm nghiệp kết hợp tại An Giang. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.
Hiện Sở Khoa học và Công nghệ An Giang cũng đã triển khai 12 đề tài nghiên cứu dược liệu, bước đầu xây dựng thành công các thương hiệu như: Bột Huyền Ngũ Hồ Sơn – Bảo Lâm, Rượu đinh lăng Ngũ Hồ Sơn… tạo thêm giá trị gia tăng và đầu ra bền vững cho sản phẩm nông, lâm kết hợp tại vùng Bảy Núi.
Không dừng lại ở phát triển kinh tế rừng, An Giang còn tận dụng cảnh quan rừng núi để phát triển du lịch sinh thái. Các khu rừng nguyên sinh gần núi Cấm, núi Dài, núi Tượng… thu hút hàng trăm nghìn lượt khách hành hương, du lịch mỗi năm. Điều này tạo động lực bảo vệ rừng hiệu quả hơn, đồng thời tạo việc làm cho người dân bản địa.
Ông Thái Văn Nhân nhấn mạnh: Rừng Bảy Núi không chỉ có giá trị sinh thái mà còn là vành đai phòng thủ quốc gia, là điểm tựa sinh kế của hàng vạn người dân vùng biên. Chính sách giao khoán rừng đã phát huy hiệu quả rõ nét, và giờ là lúc chúng ta nâng cấp mô hình này thành kinh tế rừng bền vững, kết hợp du lịch, dược liệu và nông nghiệp sinh thái.
Bảy Núi từng là vùng đất trơ trụi, quanh năm khô hạn, cháy rừng thường xuyên, nhưng hôm nay, đã khoác lên mình "tấm áo xanh tươi". Đây là kết quả của gần ba thập kỷ nỗ lực khôi phục và phát triển rừng bằng chính sách giao khoán rừng cho người dân bảo vệ, gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường. Không chỉ đem lại hiệu quả về sinh thái, mô hình còn tạo nguồn sinh kế ổn định cho người dân, đặc biệt là đồng bào Khmer tại các xã vùng biên.