Cuộc họp vừa diễn ra từ ngày 3-7/11 tại trụ sở Liên hợp quốc ở Nairobi, Kenya. Tham dự có hơn 600 đại biểu đến từ Ban Thư ký Ozone, các tổ chức quốc tế và 154 quốc gia thành viên của Nghị định thư Montreal.
Các đại biểu đã cùng thảo luận về nhiều nội dung, bao gồm: Báo cáo tài chính và ngân sách của Quỹ tín thác thực hiện Nghị định thư Montreal; điều khoản tham chiếu để nghiên cứu bổ sung cho Quỹ Đa phương thi hành Nghị định thư Montreal; phát thải của chất HFC-23; tăng cường giám sát khí quyển đối với các chất được kiểm soát theo Nghị định thư Montreal; quản lý vòng đời các chất được kiểm soát; các sáng kiến khu vực, quốc gia hỗ trợ thực hiện Bản sửa đổi, bổ sung Kigali thuộc Nghị định thư Montreal; tăng cường thể chế của Nghị định thư Montreal.
Ông Lê Ngọc Tuấn, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), Trưởng đoàn Việt Nam phát biểu tại phiên cấp cao Cuộc họp lần thứ 37 các Bên tham gia Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ozone.
Đoàn Việt Nam đưa ra 3 nội dung ưu tiên để thúc đẩy hành động toàn cầu trong việc thực hiện Nghị định thư Montreal và Bản sửa đổi, bổ sung Kigali. Thứ nhất, xây dựng các chính sách và tiêu chuẩn để tạo hành lang pháp lý huy động các khoản đầu tư dài hạn dành cho các hoạt động loại trừ, cải thiện hiệu suất năng lượng và quản lý vòng đời môi chất lạnh.
Thứ hai, tăng cường khả năng tiếp cận tài chính, chuyển giao công nghệ và xây dựng năng lực cho các quốc gia đang phát triển (các quốc gia thuộc Điều 5 của Nghị định thư Kigali), đặc biệt là để triển khai các công nghệ sử dụng chất thay thế có chỉ số tiềm năng làm nóng lên toàn cầu (GWP) thấp; đào tạo kỹ thuật viên và xây dựng hệ thống kỹ thuật số theo dõi kiểm soát dòng chảy môi chất lạnh.
Thứ ba, thúc đẩy quản lý vòng đời môi chất lạnh, hỗ trợ thu hồi, tái chế, tái sử dụng và tiêu hủy an toàn các chất được kiểm soát, bao gồm các môi chất lạnh tồn trữ.
Trong khuôn khổ phiên họp cấp cao, Trưởng đoàn Việt Nam, ông Lê Ngọc Tuấn, Phó Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã cập nhật thông tin về việc Việt Nam triển khai Kế hoạch quốc gia quản lý và loại trừ các chất làm suy giảm tầng ozone và các chất gây hiệu ứng nhà kính được kiểm soát. Việt Nam rất chú trọng đến việc cải thiện hiệu suất năng lượng và quản lý vòng đời môi chất lạnh. Đồng thời, nội dung làm mát cũng đã được xem xét, đưa vào trong Đóng góp do quốc gia tự quyết định giai đoạn 2026-2035 (NDC 3.0) với ưu tiên các giải pháp hướng tới việc thực hiện cam kết trung hòa carbon vào năm 2050.
Trưởng đoàn Việt Nam đồng thời kêu gọi các bên phối hợp trong việc hỗ trợ tài chính, chuyển giao công nghệ và tăng cường năng lực cho các quốc gia thuộc Điều 5 của Nghị định thư trong hoạt động thu hồi, tái chế và tiêu hủy an toàn các chất được kiểm soát.
Trong thời gian diễn ra cuộc họp, Đoàn Việt Nam đã có các cuộc gặp bên lề với các tổ chức và đối tác phát triển quốc tế như: Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO), Liên minh Khí hậu và không khí sạch (CCAC), Cơ quan Hợp tác Môi trường quốc tế (OECC) Nhật Bản và công ty A‑Gas Ltd. Các đối tác đã cùng trao đổi về các cơ hội hợp tác tiềm năng, việc triển khai hoạt động chuyển giao công nghệ quản lý môi chất lạnh, thu hồi và tái chế môi chất lạnh trong khu vực các nước Điều 5.
Sau 5 ngày làm việc khẩn trương, MOP 37 đã thông qua nhiều quyết định kỹ thuật và hành chính quan trọng liên quan tới việc tăng cường giám sát khí quyển, nâng cấp quản lý vòng đời các môi chất lạnh, xây dựng điều khoản tham chiếu cho việc xem xét bổ sung Quỹ Đa phương (MLF) giai đoạn 2027-2029…
Trong phần nội dung giám sát khí quyển, các chuyên gia của Ban đánh giá công nghệ và kinh tế (TEAP) đã nêu rõ khả năng hợp tác với các quốc gia, trong đó có Việt Nam, để thiết lập điểm giám sát khí quyển nhằm thu thập dữ liệu về các chất được kiểm soát theo Nghị định thư. Đây là cơ hội để Việt Nam xem xét việc đặt trạm giám sát khí quyển trên lãnh thổ.
Theo dự kiến, kỳ họp tiếp theo (MOP 38) sẽ diễn ra từ ngày 2-6/11/2026 tại đất nước Rwanda. Đây cũng là dịp kỷ niệm 10 năm kể từ khi Bản sửa đổi, bổ sung Kigali được thông qua (năm 2016), trở thành một cột mốc quan trọng trong việc toàn cầu giảm phát thải HFC và thúc đẩy quản lý toàn diện vòng đời môi chất lạnh.






















