Giảm dần nhiệt điện than
Việc Việt Nam tham gia Tuyên bố toàn cầu về chuyển đổi điện than sang năng lượng sạch đặt ra áp lực lớn, bởi nhu cầu phát triển kinh tế đòi hỏi nhu cầu năng lượng trong giai đoạn tới rất cao. Mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2025 từ 8% trở lên, và dự kiến những năm tiếp theo có thể đạt hai con số khiến các ngành sản xuất sẽ cần nhiều điện hơn để mở rộng hoạt động. Điều này kéo theo sản lượng điện hằng năm phải tăng trung bình 12% đến hơn 16%, theo tính toán của Bộ Công Thương.
Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch điện VIII điều chỉnh) ra đời với mục tiêu phát triển hệ sinh thái công nghiệp năng lượng tổng thể dựa trên năng lượng tái tạo, năng lượng mới.
Công trường xây dựng nhà máy điện gió tại vùng núi cao Tây Nguyên. Ảnh: Tuấn Anh.
Về điện than, Quy hoạch điện VIII điều chỉnh nêu rõ chỉ thực hiện tiếp các dự án đã có trong quy hoạch và đang đầu tư xây dựng đến năm 2030; đồng thời, định hướng thực hiện chuyển đổi nhiên liệu sang sinh khối/amoniac với các nhà máy đã vận hành được 20 năm khi giá thành phù hợp. Các nhà máy có tuổi thọ hơn 40 năm sẽ bị dừng hoạt động nếu không thể chuyển đổi nhiên liệu.
Trong cơ cấu nguồn điện đến năm 2030, công suất nhiệt điện than chiếm tỷ lệ 13 - 17%, mức giảm mạnh so với tỷ lệ trên 50% trong cơ cấu nguồn điện hiện tại. Định hướng đến năm 2050, Việt Nam sẽ không sử dụng than để phát điện. Đây là yếu tố quan trọng nhằm đạt được cam kết quốc gia về phát thải ròng bằng 0 (Net Zero).
Lộ trình trên gắn chặt với phát triển nguồn điện từ năng lượng tái tạo để bù đắp. Quy hoạch đặt ra mục tiêu tăng tỷ lệ năng lượng tái tạo (không bao gồm thủy điện) trong cơ cấu nguồn điện lên khoảng 28 - 36% vào năm 2030 và định hướng đến năm 2050, tỷ lệ này sẽ đạt đến mức ấn tượng 74-75%.
Các nguồn điện gió trên bờ và ngoài khơi, điện mặt trời phù hợp sẽ được đầu tư tối đa với khả năng hấp thụ của hệ thống điện quốc gia, khả năng giải tỏa công suất của lưới điện cũng như chi phí truyền tải hợp lý. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng ưu tiên, khuyến khích phát triển điện gió, điện mặt trời tiêu thụ tại chỗ, không đấu nối hoặc không bán điện vào lưới điện quốc gia.
Cơ hội hình thành các trung tâm năng lượng tái tạo
Ở góc độ địa phương và doanh nghiệp, lộ trình chuyển dịch năng lượng mang lại cả cơ hội và áp lực. Những khu vực có tiềm năng gió, mặt trời như Tây Nguyên, Nam Trung Bộ hay Đồng bằng sông Cửu Long sẽ có điều kiện thu hút các dự án năng lượng tái tạo quy mô lớn, từ đó tạo thêm việc làm và nguồn thu.
Để triển khai Quy hoạch, Bộ Công Thương cũng đề xuất xây dựng 2 trung tâm công nghiệp, dịch vụ năng lượng tái tạo liên vùng. Trung tâm phía Bắc sẽ được đặt tại các địa phương như Hải Phòng, Quảng Ninh với khả năng mở rộng ra các khu vực lân cận trong tương lai. Trung tâm này sẽ bao gồm các nhà máy chế tạo thiết bị phục vụ điện gió, điện mặt trời, các dịch vụ hậu cần, cảng biển chuyên dụng hỗ trợ thi công, vận hành, bảo trì các dự án năng lượng tái tạo. Tương tự, trung tâm phía Nam dự kiến đặt tại khu vực Ninh Thuận, TP.HCM.
Hiện nay, các Bộ, ngành đang phối hợp với các địa phương để giải quyết các khó khăn trong công tác đất đai, giải phóng mặt bằng, thủ tục đầu tư, giá điện... Việc chủ động xử lý các vướng mắc này không chỉ giúp duy trì tiến độ thực hiện Quy hoạch điện VIII điều chỉnh mà còn bảo đảm an ninh năng lượng trong giai đoạn nhu cầu tăng mạnh, tạo nền tảng để Việt Nam tiến một bước lớn, mang tính quyết định cho tăng trưởng bền vững nhiều thập kỷ tới.

























