Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát triển thủy lợi
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, phát triển thủy lợi phục vụ nông nghiệp luôn có một vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế, xã hội và đời sống của người nông dân.
Người từng nhấn mạnh: “Việt Nam ta có hai tiếng Tổ quốc, ta cũng gọi Tổ quốc là đất nước; có đất và có nước, thì mới thành Tổ quốc. Có đất lại có nước thì dân giàu, nước mạnh”. Suốt 80 năm qua, công tác phát triển thủy lợi luôn được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta chăm lo.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm công trường đại thủy nông Bắc Hưng Hải ngày (25/12/1958). Ảnh: hochiminh.vn
Ngay khi cuộc kháng chiến chống Pháp đang diễn ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm đến việc phục hồi và phát triển nền nông nghiệp nước nhà, trong đó nhiệm vụ quan trọng nhất là công tác thủy lợi.
Ngày 29/2/1948, Người chủ trì phiên họp Hội đồng Chính phủ bàn và ra nghị quyết một số việc, trong đó có việc thủy nông, sửa chữa và vét máng nước, làm thêm đê đập và máng nước cho tỉnh Phú Thọ, Thái Bình, tiếp tục đặt bơm nước ở Đô Lương, nghiên cứu và đặt ống nước bằng nứa ở Việt Bắc để làm vụ chiêm năm 1948.
Tháng 2/1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì phiên họp Hội đồng Chính phủ thành lập Hội đồng thủy nông để giúp việc đê điều và các công tác thủy nông.
Đầu năm 1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm công trường Máng số 7, một công trình thủy lợi lớn của tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội). Nói chuyện với gần 2.000 cán bộ và dân công trên công trường, Người nói: “Ta có ruộng, phải biến ruộng đó thành thóc gạo. Muốn có thóc gạo phải cấy lúa, muốn lúa tốt phải có đủ nước, nhiều phân, giống tốt. Vì vậy, ta phải làm thủy lợi, phải cố gắng để chủ động trong tưới tiêu.
Bắc Hưng Hải - "Con rồng vàng" đánh thức vùng đồng bằng rộng lớn
Để giải quyết tình trạng “mười năm chín hạn”, “sống ngâm da, chết ngâm xương” cho các tỉnh Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh, Đảng, Nhà nước quyết định xây dựng đại thủy nông Bắc Hưng Hải. Đây là một hệ thống kênh, đập, trạm bơm, đê điều nhằm phục vụ việc tưới tiêu và thoát úng cho một vùng tứ giác nước được giới hạn bởi sông Hồng ở phía Tây, sông Đuống ở phía Bắc, sông Thái Bình ở phía Đông, và sông Luộc ở phía Nam. Mỗi tỉnh/thành Hà Nội, Bắc Ninh, Hưng Yên và Hải Dương đều có một phần địa bàn của mình trong tứ giác này.

Cống Xuân Quan lấy nước từ sông Hồng vào hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải được xây dựng từ ý Đảng, lòng dân. Ảnh: Quang Dũng.
Tổng chiều dài của hệ thống kênh chính là 200 km. Nước tưới được lấy từ sông Hồng chủ yếu qua cống Xuân Quan. Nước tiêu chủ yếu qua các cống Cầu Xe, An Thổ. Ngoài ra còn có một số trạm bơm kết hợp tưới - tiêu trực tiếp với các sông lớn tại những vùng hẹp ven các sông Đuống, Luộc, Thái Bình.
Ngày 1/10/1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã bổ nhát cuốc đầu tiên tại công trường thi công cống Xuân Quan (Hưng Yên), mở đầu việc xây dựng công trình đại thủy nông Bắc Hưng Hải. Chỉ sau 7 tháng thi công, ngày 1/5/1959 công trình thủy lợi Bắc Hưng Hải đã hoàn thành ngoài mong đợi với khối lượng công việc khổng lồ: Xây đúc 7.500m3 bê tông, xây lát đá 226.000m3, đào gần 3.000.000 m3 đất. Công trình bảo đảm cung cấp nước tưới cho hơn chục nghìn ha lúa, hoa màu, cây công nghiệp và tiêu úng cho gần 20.000 ha lưu vực.
Trong quá trình chuẩn bị và xây dựng hệ thống thủy lợi này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã 4 lần trực tiếp đến kiểm tra, thăm hỏi, động viên cán bộ và dân công làm việc trên công trường. Có lần, mặc dù trời mưa nặng hạt, đường lầy lội, Bác vẫn đến thăm anh em dân công đang đào kênh dẫn nước phía ngoài cống Xuân Quan.
Nói chuyện với khoảng 3 vạn dân công, công nhân, cán bộ trên công trường, Người nhấn mạnh: “Việc xây dựng công trình đại thủy lợi Bắc Hưng Hải là một chiến dịch. Trong chiến dịch này, ta phải có tinh thần quyết chiến, quyết thắng. Các đảng viên, đoàn viên, thanh niên, công nhân, cán bộ phải làm gương mẫu. Phải cố gắng làm thế nào đảm bảo có đủ nước cho vụ chiêm sắp tới được thắng lợi, đem lại no ấm cho đồng bào”. Thực tế, mong mỏi của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thành hiện thực.
Ông Trịnh Thế Trường - Chủ tịch HĐQT Công ty TNHH MTV Khai thác công trình thủy lợi Bắc Hưng Hải chia sẻ: “Việc xây dựng hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải là mục tiêu quốc gia, qua đó đáp ứng yêu cầu tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp”.

Ông Trịnh Thế Trường (giữa) và ông Nguyễn Văn Kình - Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hưng Yên chia sẻ với phóng viên Báo Nông nghiệp và Môi trường về ý nghĩa, tầm quan trọng của hệ thống đại thủy nông Bắc Hưng Hải. Ảnh: Quang Dũng.
Không chỉ đối mặt với hạn hán, người dân trong vùng “tứ giác” Bắc Hưng Hải thời điểm ấy còn thường xuyên hứng chịu cảnh “chiêm khê mùa thối”, canh tác hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên. Vào vụ xuân thì không có nước để cày cấy, thậm chí khi cấy lúa xong rồi vẫn phải “lạy trời cho mưa”. Năm 1995, năng suất lúa bình quân chỉ đạt khoảng 1,3 tấn/ha, rất thấp.
Và, điều đáng mừng là khi hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải được đưa vào sử dụng, nước chảy đến đâu bà con mở mang diện tích trồng trọt đến đó, năng suất, sản lượng lúa không ngừng tăng lên. Đến nay, năng suất lúa bình quân trong vùng phục vụ của hệ thống đạt hơn 60 tạ ha/năm. Nhiều người ví Bắc Hưng Hải chính là “con rồng vàng” làm trỗi dậy một vùng châu thổ rộng lớn.
Ông Nguyễn Văn Kình, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Hưng Yên, cũng chia sẻ, hệ thống Bắc Hưng Hải có vai trò rất quan trọng đối với sản xuất nông nghiệp của tỉnh Hưng Yên nói riêng và 4 địa phương trong vùng phục vụ của hệ thống nói chung.
Rốn ngập Nam Hà thành vựa lúa trù phú
Tại Hội nghị thủy lợi toàn miền Bắc năm 1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Làm thủy lợi phải là phong trào toàn dân. Xã này với xã khác, huyện này với huyện khác, tỉnh này với tỉnh khác, đều có liên quan với nhau, phải cùng làm, phải thảo luận với nhau, phải đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, không nên chỉ nhìn thấy lợi ích của nơi mình và để thiệt hại cho nơi khác”, đặc biệt, phải định hướng đúng phương châm của Chính phủ: giữ nước là chính, thủy lợi hạng nhỏ là chính và nhân dân tự làm là chính”.
Sau thành công của hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải, nhiều công trình thủy nông ở miền Bắc được quan tâm đầu tư. Đặc biệt là hệ thống 6 trạm bơm điện Bắc Nam Hà, giải quyết tình trạng ngập úng cho “rốn ngập” các tỉnh Hà Nam, Nam Định cũ (nay là tỉnh Ninh Bình).

Sắc xanh bạt ngàn trên công trình thủy lợi Bắc Nam Hà. Ảnh: Quang Dũng.
Ông cha ta có câu "Bụt Nam Sang còn chê oản chiêm", như minh chứng cho nỗi thống khổ của người dân xứ này trước thiên tai.
Theo nhà nông học Bùi Huy Đáp trong cuốn "Kể chuyện thành ngữ, tục ngữ", Nam Sang là huyện cổ của vùng đồng chiêm Nam Định và khu đồng trũng của huyện Lý Nhân, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam (nay là tỉnh Ninh Bình). Trước đây, khu vực này chỉ cấy được vụ lúa chiêm, còn các vụ khác thì bỏ hóa, nước ngập mênh mông, đi lại chỉ bằng thuyền.
Để giải quyết bài toán úng lụt, giúp nhân dân thâm canh tăng vụ, dẫu trong thời kỳ kháng chiến đang ở giai đoạn khốc liệt, miền Bắc hứng chịu những thiệt hại to lớn, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn đề nghị Chính phủ Liên Xô hỗ trợ để xóa bỏ vùng trũng này.
Đáp lại đề nghị đó, đoàn chuyên gia Liên Xô đã sang nghiên cứu khảo sát. Năm 1962, lần đầu tiên toàn bộ khu vực phía bắc tỉnh Nam Hà (cũ) được nghiên cứu lập quy hoạch tiêu thoát nước để phát triển sản xuất (gọi tắt là Quy hoạch 1962).

Những vùng đất "mười năm chín hạn" ở Hải Dương, Hưng Yên hay "rốn ngập" Nam Hà vùng đồng bằng sông Hồng đã được "đánh thức" nhờ nguồn nước từ hệ thống thủy lợi, trở thành những vùng sản xuất nông nghiệp trù phú.
Căn cứ vào điều kiện địa hình, Quy hoạch 1962 (tiền thân của hệ thống thủy lợi Bắc Nam Hà) đã xác định toàn vùng có khoảng 77.500ha trũng thấp chỉ cấy được 1 vụ lúa chiêm, bắt buộc phải tiêu bằng động lực. Số diện tích còn lại là gần 7.900ha bao gồm 6 xã khu vực bắc huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam (gần 2.400ha) và khu vực Độc Bộ thuộc huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định (gần 5.500ha) là vùng đất cao tiêu tự chảy ra sông Châu và sông Đáy.
Từ năm 1964 đến năm 1972, với sự giúp đỡ của Chính phủ Liên Xô, 6 trạm bơm điện lớn đã được Nhà nước đầu tư xây dựng là Cốc Thành, Cổ Đam, Hữu Bị, Vĩnh Trị, Nhâm Tràng và Như Trác tạo thành Hệ thống 6 trạm bơm điện lớn Bắc Nam Hà hay còn gọi Hệ thống thủy lợi Bắc Nam Hà.
Chỉ tay vào tấm bản đồ hệ thống thủy lợi Bắc Nam Hà, ông Trần Văn Dũng - Phó Giám đốc Công ty TNHH MTV Khai thác công trình thủy lợi Bắc Nam Hà chỉ cho chúng tôi nơi những dòng kênh thủy lợi đi qua hiện lên như những bức tường bằng nước đang ngày đêm bảo vệ khu vực trũng nhất đồng bằng Bắc Bộ trước những cơn “giận dữ” của thiên nhiên. Ông bảo, cứ mỗi lần mưa lớn là hệ thống lại được vận hành, nhanh chóng bơm tốc lực để chống ngập cả vùng”, ông Dũng nói.
Kiến tạo những kho nước vùng trung du, miền núi
PGS. TS Đỗ Văn Thành, nguyên Viện trưởng Viện Quy hoạch Thủy lợi, Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho biết, trong giai đoạn 1961 - 1975, nhiều hồ chứa ở trung du miền núi cũng được xây dựng để tích nước vào mùa mưa, giảm lũ, cung cấp nước tưới, nước sinh hoạt, điển hình là hồ Nậm Rốm (tỉnh Điện Biên) năm 1963.
Trong giai đoạn 1965 - 1975, thủy lợi vừa phải bảo vệ, ngụy trang, sửa chữa các công trình, vừa tập trung phát triển thủy lợi ở miền núi, trung du. Đây là giai đoạn có nhiều cán bộ thủy lợi và nhân dân hy sinh trong quá trình bảo vệ và xây dựng các công trình thủy lợi.
Nhiều hệ thống công trình được đầu tư xây dựng như hồ Núi Cốc (tỉnh Thái Nguyên), hồ Cấm Sơn (tỉnh Bắc Giang cũ, nay là tỉnh Bắc Ninh), hồ Đồng Mô (tỉnh Vĩnh Phúc cũ và Hà Nội, nay thuộc địa bàn Thành phố Hà Nội), hồ Sông Mực, hồ Núi Một (tỉnh Thanh Hóa), kênh tiêu Vách Bắc (tỉnh Nghệ An), hồ Trung Thuần (tỉnh Quảng Bình cũ, nay là tỉnh Quảng Trị).
Bên cạnh đó, ngành thủy lợi xây dựng những công trình vừa làm nhiệm vụ phát điện, vừa giải quyết nước tưới, tiêu úng, chống lũ cho đồng bằng Bắc Bộ. Tính đến năm 1975, miền Bắc đã xây dựng và đưa vào khai thác được hơn 1.300 công trình thủy nông, hệ thống thủy lợi có thể tưới cho 1,1 triệu ha và tiêu cho 720.000 ha.