Hội nghị đánh giá kết quả phát triển sản phẩm OCOP và du lịch nông thôn giai đoạn 2021-2025 do Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức sáng 16/10 ghi nhận nhiều câu chuyện sinh động, từ thực tiễn triển khai đến bài học kinh nghiệm và định hướng phát triển trong giai đoạn mới. Trong đó, phát biểu của lãnh đạo các địa phương, doanh nghiệp và nhà khoa học đã mang đến những góc nhìn toàn diện, cho thấy sức sống bền bỉ của Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm OCOP” trên hành trình khẳng định thương hiệu Việt.

Sản phẩm OCOP giữ nguyên hồn cốt địa phương dù địa giới hành chính thay đổi. Ảnh: Trúc Mai.
Quảng Ninh - Điểm sáng tiên phong của OCOP
Phát biểu tại hội nghị, ông Nguyễn Văn Công, Phó chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh cho biết, Quảng Ninh được xem là “Việt Nam thu nhỏ”, hội tụ đủ đặc trưng về địa hình, tài nguyên và văn hóa, sở hữu hai di sản thế giới được UNESCO công nhận: Vịnh Hạ Long, Quần đảo Cát Bà và Quần thể di tích, danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc.
Dù tỷ trọng nông nghiệp chỉ chiếm 4,1% GRDP, dân số nông thôn khoảng 23,9%, nhưng tỉnh luôn coi phát triển nông nghiệp, nông thôn là ưu tiên hàng đầu. Trong giai đoạn 2021-2025, tốc độ tăng trưởng ngành nông - lâm - thủy sản của tỉnh ước đạt 3,62%/năm. Quảng Ninh cũng là địa phương hoàn thành Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới sớm 2 năm, với 5/7 huyện đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao.
Trong đó, OCOP được xem là “đòn bẩy” quan trọng trong tái cơ cấu nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn. Tỉnh đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ đặc thù như hỗ trợ lãi suất, đầu tư liên kết sản xuất, xây dựng thương hiệu, ứng dụng khoa học công nghệ…

ông Nguyễn Văn Công, Phó chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ninh. Ảnh: Khương Trung.
Nhờ đó, chương trình OCOP đã đạt nhiều kết quả nổi bật: 437 sản phẩm OCOP đạt từ 3 sao trở lên; trong đó có 326 sản phẩm 3 sao, 103 sản phẩm 4 sao và 8 sản phẩm 5 sao cấp quốc gia, đưa Quảng Ninh trở thành một trong những tỉnh dẫn đầu cả nước về số lượng sản phẩm đạt chuẩn.
180 tổ chức kinh tế tham gia chương trình (48 doanh nghiệp, 70 hợp tác xã, 62 hộ sản xuất), tạo việc làm và sinh kế ổn định cho hàng nghìn lao động nông thôn; 63 mã số vùng trồng với diện tích hơn 1.520 ha, 9 mã số cơ sở đóng gói được cấp; hơn 1.100 ha cây trồngsản xuất theo quy trình GAP, trong đó có 320 ha đạt VietGAP, 90 ha lúa và 329 ha quế được chứng nhận hữu cơ; 100% sản phẩm được gắn mã số, mã vạch điện tử, xuất hiện trong hệ thống BigC, VinMart và nhiều cửa hàng thực phẩm sạch trong nước, thậm chí bước đầu thâm nhập thị trường Trung Quốc và ASEAN.
Từ thực tiễn triển khai, Quảng Ninh rút ra nhiều bài học kinh nghiệm như vai trò người đứng đầu mang tính quyết định; cần bộ máy chuyên trách đủ năng lực; thông tin tuyên truyền phải đồng bộ; chú trọng xúc tiến thương mại và xây dựng thương hiệu.
Ông Nguyễn Văn Công thẳng thắn nhìn nhận, dù đạt nhiều kết quả, OCOP Quảng Ninh vẫn đối mặt một số hạn chế: quy mô sản xuất còn nhỏ, sức cạnh tranh chưa cao, kết nối du lịch - OCOP chưa thực sự chặt chẽ.
Để phát triển bền vững giai đoạn 2026-2030, Quảng Ninh kiến nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường: Hoàn thiện cơ chế chính sách thúc đẩy phát triển nông sản gắn với lợi thế vùng miền; Hỗ trợ đào tạo nhân lực, xúc tiến thương mại, đặc biệt là kỹ năng làm du lịch cho chủ thể OCOP; Tăng cường chuyển đổi số trong sản xuất, quản lý và tiêu thụ; Kết nối truyền thông quốc gia để lan tỏa hình ảnh sản phẩm OCOP mang giá trị văn hóa Việt.
OCOP - Thương hiệu của niềm tin và bản sắc
Đại diện khu vực doanh nghiệp, ông Tạ Minh Sơn, Giám đốc DNTN Tứ Sơn (An Giang) cho rằng, đến nay chương trình OCOP “đã thực sự đi sâu vào tiềm thức của người dân”.

Ông Tạ Minh Sơn, Giám đốc DNTN Tứ Sơn (An Giang). Ảnh: Khương Trung.
Ông dẫn chứng: “Chỉ trong 3 ngày, tại Đồng Tháp, các sản phẩm OCOP đã bán ra gần một quý tấn hàng hóa, con số nhỏ nhưng phản ánh niềm tin lớn của người tiêu dùng”. Theo ông, OCOP không chỉ là thương hiệu, mà là minh chứng cho chất lượng và an toàn thực phẩm, trở thành điểm nhấn trong các hội chợ, sự kiện thương mại địa phương.
Tuy nhiên, ông Sơn cũng cảnh báo: “Chúng ta không nên chạy theo số lượng, mà phải chạy theo chất lượng”. Việc công nhận sản phẩm cần đặt câu hỏi “thị trường của sản phẩm đó đi về đâu?”. Nếu thiếu định hướng, sản phẩm khó tồn tại bền vững.
Từ thực tế vùng biên giới, ông Sơn chia sẻ nhiều ví dụ: Muối ớt Tây Ninh được sáng tạo thành muối ngọt, muối thảo mộc; đường thốt nốt Đồng Tháp phát triển thành nhiều dòng tinh chế giá trị cao; kẹo gương Quảng Ngãi trở thành đặc sản quà tặng hiện đại nhưng vẫn giữ hồn bản địa.
Theo ông, giá trị của OCOP nằm ở chỗ “kết hợp hài hòa giữa giá trị tương đồng, khả năng hòa nhập thị trường và giá trị Việt làm nên bản sắc riêng không thể trộn lẫn”.
“OCOP phải đi vào đời sống bằng chiều sâu văn hóa và sức sống thực chất. Đó là con đường duy nhất để thương hiệu Việt vươn ra quốc tế”, ông Sơn nhấn mạnh.
Sứ mệnh văn hóa và tầm nhìn quốc gia
Từ góc độ học thuật, Phó giáo sư, tiến sĩ Ngô Thị Phương Lan, Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP HCM khẳng định: “OCOP là một chương trình rất nhân văn, kết hợp giữa bản sắc văn hóa địa phương và chiến lược phát triển kinh tế bền vững.”
Theo bà Lan, OCOP của Việt Nam học hỏi có chọn lọc từ các mô hình quốc tế như OVOP (Nhật Bản) và OTOP (Thái Lan), nhưng được Việt hóa để phù hợp với thực tiễn. Nhờ đó, chương trình không chỉ tạo sinh kế mà còn lan tỏa văn hóa, trở thành biểu tượng của niềm tin và chất lượng.

Phó giáo sư, tiến sĩ Ngô Thị Phương Lan, Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM. Ảnh: Khương Trung.
Bà Lan nhấn mạnh, OCOP đã góp phần làm phong phú văn hóa và du lịch nông thôn, giúp mỗi sản phẩm trở thành “một câu chuyện của vùng đất và con người”, phù hợp tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Không chỉ dừng ở thương hiệu địa phương, OCOP đang từng bước trở thành thương hiệu quốc gia, góp phần nâng tầm hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế.
Tại Trường Đại học KHXH&NV TP.HCM, nhà trường đã xây dựng “Không gian OCOP - Giá trị nhân văn, tinh hoa sản phẩm Việt”, nơi trưng bày, quảng bá sản phẩm tới sinh viên, khách quốc tế và đối tác trong và ngoài nước.
Hướng tới tương lai, bà Lan đề xuất ba trọng tâm: Nâng cao chất lượng sản phẩm; Đổi mới sáng tạo dựa trên công nghệ; Xây dựng thương hiệu bền vững gắn với xuất khẩu.
Bên cạnh đó, cần có quỹ đổi mới sáng tạo cho các chủ thể OCOP, lồng ghép triển khai với Nghị quyết 68 (về phát triển kinh tế tư nhân) và Nghị quyết 57 (về đổi mới sáng tạo). Đồng thời, ứng dụng chuyển đổi số trong quản lý, cấp chứng nhận, truy xuất nguồn gốc, chuyển từ “tiền kiểm sang hậu kiểm” để đảm bảo uy tín thương hiệu.
“OCOP không chỉ là chương trình phát triển kinh tế nông thôn, mà là một sứ mệnh văn hóa, nơi tinh hoa bản địa được khơi dậy, lan tỏa và hội nhập. Với định hướng đúng và sự đồng hành của các bên, tôi tin OCOP Việt Nam sẽ vươn xa, vươn cao, vươn bền, trở thành biểu tượng của thương hiệu Việt trên bản đồ thế giới”, bà Lan nói.