
Bắt đầu địa giới của "rừng ma" bản Lao Khô. Ảnh: Dương Đình Tường.
Vừa đi ông Lử vừa kể, bố ông sinh năm 1890, mất 1990, thọ đúng 100 tuổi. Ông có công khi năm 1926 đã dẫn những người Mông khác từ bản Chiềng Ly huyện Vân Hồ về khai phá vùng đất này. Dân làng kính trọng đã gọi tên bản là Lao Khô từ bấy giờ. Đến năm 1982 có 4 cán bộ của ngành văn hóa về tìm hiểu ngọn nguồn và công nhận bản có tên chính thức là Lao Khô. Ngày nay bản Lao Khô thuộc xã Phiêng Khoài, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La.
Người Mông khi đến một vùng đất mới nào thường chọn một khu rừng ở trên ngọn đồi, ngọn núi cao nhất, có nhiều cây to nhất, có mó nước sạch nhất, có thể chở che cho dân bản. Người ta gọi đó là “rừng ma”. Tuy nhiên khác với nhiều dân tộc, “rừng ma” của dân tộc Mông hoàn toàn không phải là nghĩa địa chôn người chết mà chỉ là nơi thờ thần đất, thần trời và thần rừng.
Cứ 3 năm một lần bản Lao Khô lại tổ chức cúng thần rừng dưới một gốc cổ thụ trong “rừng ma” cầu cho mưa nắng thuận hòa, hạt lúa, hạt ngô chắc mẩy, con lợn, con gà nuôi không chết, con người sống không ốm đau. Để chuẩn bị cho lễ cúng mỗi nhà góp vài bát gạo và một ít tiền để mua 1 con lợn đực thiến, 1 con dê đực không thiến, 1 đôi gà có đủ trống mái mào đỏ tươi như màu cờ.

Ông Tráng Lao Lử bên một gốc cổ thụ trong "rừng ma". Ảnh: Dương Đình Tường.
Tất cả đều được mổ moi ruột gan rồi luộc nguyên con xếp lên cái bàn thờ làm bằng tre nứa tươi, đặt dưới gốc một cây cổ thụ trong “rừng ma”. Sau khi thầy cúng khấn thì mời các chủ hộ trong bản lên. Mỗi nhà có bao nhiêu người là đặt bấy nhiêu cái áo đã mặc của người ấy để làm phép.
Lao Khô có 7 dòng họ, đông dân nên phải lần lượt làm phép kiểu cuốn chiếu theo từng dòng họ một. Thần rừng sẽ nhận ra mùi của người đã mặc áo mà đuổi con ma xấu, phù hộ cho họ. Xong xuôi rồi thì dân bản sắp một mâm dài bằng lá chuối rừng trên đó đặt thịt lợn, thịt dê, thịt gà luộc đã băm nhỏ kèm với xôi, cơm mang từ nhà. Người cầm thìa xúc, người bốc bằng tay cùng nhau ăn bữa cơm đoàn kết. Mọi người phải ăn cho hết, kể cả có thức ăn thừa đi chăng nữa cũng không được mang về nhà.
Họ chỉ mang mỗi miếng tre đan đã được làm phép về cắm ở nương rẫy của mình để công nhận là đất đã có chủ, để lũ quét không kéo đến gây xói mòn đất, chuột, sóc không kéo đến ăn lúa, ăn ngô, ăn cà phê hay ăn mận hậu. Mỗi nhà chỉ có một miếng tre như vậy nên nếu có nhiều mảnh nương thì cắm ở mảnh to nhất để thần ở mảnh nương đó báo cho thần ở các mảnh nương khác biết.
Lễ cúng rừng không phải là một ngày cố định mà có thể đầu năm hoặc cuối năm do già làng chọn. Xưa trong 3 ngày cúng thần rừng như vậy ở đầu bản có cắm lá để cấm người lạ vào. Nếu ai vi phạm sẽ phải đền bằng đúng số lễ cúng thần rừng năm đó. Nay tục cắm lá vẫn duy trì nhưng chỉ là cấm ma vào, chứ không còn cấm người lạ vào nữa.

Với người Mông mỗi cái cây cũng có linh hồn. Ảnh: Dương Đình Tường.
Ai vào “rừng ma” như chặt gỗ, phá cây cũng không bị phạt nhưng dân bản kể với nhau rằng kẻ ấy nhất định sẽ bị đau mắt, cúng ở nhà không đỡ, uống thuốc ở nhà cũng không đỡ. Chỉ còn cách lấy 3 nén hương vào “rừng ma” thắp dưới gốc cây thờ thần rừng mới mong khỏi được. Những cái cây là nơi trú ngụ của các linh hồn. Ai tôn trọng thì thần rừng sẽ được phù hộ, ngược lại coi thường thì sẽ bị trừng phạt.
2025 là năm thứ 100 ông Lao Khô về lập bản. 100 năm rồi mà bản Lao Khô không xảy ra trận lũ quét nào cũng là nhờ khu “rừng ma” rộng khoảng 5 ha này che chở. Để hôm nay tôi được đi dạo trong rừng cùng với con ông có tên là Lao Lử, ngót 90 tuổi mà vẫn còn nhanh nhẹn chẳng kém thanh niên. Mỗi bước chân tôi bị lún cả gang tay bởi những lớp thảm lá rừng mềm và xốp, mát và êm. Những cây dẻ, cây bồ đề cổ thụ cùng với cây nhỡ, cây con, cây bụi, tre nứa, dây leo đan xen chằng chịt đến nỗi khó tìm thấy một lối đi khả dĩ nào.
Thấy tôi bước nhanh vì sợ lũ vắt cắn, ông Lử cười hiền lành: “Cho vắt cắn một chút cũng có sao đâu. Nó cũng có quyền được ăn, được sống mà”. Câu nói mộc mạc của ông thấm sâu vào đầu tôi giống như những cơn mưa mùa hạ thấm sâu xuống lớp lá mục trong “rừng ma” vậy.