Trao đổi với Báo Nông nghiệp và Môi trường, TS Trần Minh Hải, Phó Hiệu trưởng Trường Chính sách công và Phát triển nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) đã làm rõ bản chất thị trường các-bon, câu chuyện giá tín chỉ các-bon rừng Việt Nam, cũng như cơ hội tham gia thị trường này của nông dân, doanh nghiệp và chính quyền địa phương.
TS Trần Minh Hải, Phó Hiệu trưởng Trường Chính sách công và Phát triển nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Môi trường). Ảnh: Lê Hoàng Vũ.
Tín chỉ các-bon rừng Việt Nam không ‘bán rẻ’ như dư luận lo ngại
Thưa ông, cơ sở nào hình thành thị trường carbon trên thế giới hiện nay?
Thị trường các-bon bắt nguồn từ các cam kết quốc tế về giảm phát thải khí nhà kính, đặc biệt là Nghị định thư Kyoto năm 1997. Theo đó, các quốc gia phát thải nhiều CO₂ phải có trách nhiệm chi trả, còn những quốc gia, khu vực hấp thụ hoặc giảm được nhiều các-bon sẽ được nhận tiền.
Từ nguyên lý đó, các nước công nghiệp nơi phát thải lớn, áp dụng thuế các-bon hoặc buộc doanh nghiệp phải mua tín chỉ các-bon để bù đắp lượng phát thải. Đây chính là nền tảng hình thành thị trường mua bán tín chỉ các-bon trên phạm vi toàn cầu.
Dư luận cho rằng Việt Nam bán 10,3 triệu tín chỉ các-bon rừng với giá khoảng 5 USD/tín chỉ là quá rẻ. Quan điểm của ông thế nào?
Nói Việt Nam “bán rẻ” là chưa có cơ sở khoa học. Giá của một tín chỉ các-bon không cố định, mà phụ thuộc vào loại thị trường và cách hình thành tín chỉ. Hiện nay có hai loại thị trường các-bon: Thị trường tự nguyện và thị trường bắt buộc. Giá tín chỉ ở hai thị trường này khác nhau rất lớn, không thể so sánh đơn giản.
Thị trường các-bon tự nguyện là nơi các doanh nghiệp, tổ chức tự nguyện giảm phát thải, rồi mua tín chỉ các-bon để đạt các mục tiêu môi trường, ESG, hoặc cam kết phát triển bền vững.
Ví dụ, với lúa, dừa hoặc rừng, nếu sản xuất theo cách thông thường thì chưa có tín chỉ. Muốn có tín chỉ, phải đầu tư thay đổi quy trình, áp dụng kỹ thuật mới để giảm phát thải hoặc tăng hấp thụ các-bon. Phần giảm thêm đó mới được đo đạc, thẩm định và cấp tín chỉ.
Cơ giới hóa thu hoạch lúa gắn với quản lý rơm rạ, không đốt đồng là một trong những khâu quan trọng giúp canh tác lúa giảm phát thải khí nhà kính, tạo nguồn tín chỉ các-bontrong Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao ở ĐBSCL. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.
Trong khi đó, thị trường các-bon bắt buộc áp dụng với các doanh nghiệp phát thải lớn như thép, xi măng, phân bón… Nhà nước phân bổ hạn ngạch phát thải. Nếu phát thải vượt mức, doanh nghiệp bắt buộc phải mua tín chỉ các-bon, nếu không sẽ bị xử phạt rất nặng.
Như vậy, việc Việt Nam bán tín chỉ các-bon rừng là thuộc thị trường nào?
Việt Nam bán tín chỉ các-bon rừng trên thị trường tự nguyện, cho các đối tác trung gian, mua với số lượng lớn theo dự án đã được thẩm định. Mức giá khoảng 5 USD/tín chỉ là giá trung bình phổ biến của loại tín chỉ này trên thị trường quốc tế.
Sau đó, các doanh nghiệp thuộc thị trường bắt buộc sẽ mua lại từ các đơn vị trung gian này với giá cao hơn, vì họ bắt buộc phải mua để tránh bị phạt. Do đó, không thể nói Chính phủ Việt Nam “bán hớ”.
Nhưng vì sao có loại tín chỉ các-bon trên thế giới được giao dịch tới 100 USD/tín chỉ?
Giá tín chỉ phụ thuộc rất lớn vào chi phí đầu tư để tạo ra nó. Những lĩnh vực khó giảm phát thải như nhựa, thép, phân bón, hóa chất… muốn giảm được 1 tấn CO₂ phải đầu tư công nghệ rất lớn, chi phí cao, rủi ro cao. Vì vậy, tín chỉ các-bon từ các lĩnh vực này có thể được mua với giá 50-100 USD/tín chỉ.
Ngược lại, tín chỉ các-bon từ rừng, dừa, lúa có chi phí đầu tư thấp hơn, nên giá thường dao động 5-10 USD/tín chỉ. Thực tế, tín chỉ các-bon rừng Amazon hiện cũng chỉ khoảng 1,5 USD/tín chỉ.
Người dân có thể tạo tín chỉ các-bon
Người dân và chính quyền đô thị có thể tham gia giảm phát thải từ những hoạt động nào?
Ở đô thị, tín chỉ các-bon có thể đến từ các hoạt động như: Chuyển từ xe xăng, dầu sang xe điện.Xây dựng công trình xanh. Sử dụng điện năng lượng tái tạo. Trồng cây xanh, cải tạo kênh rạch, xử lý ao tù. Với chính quyền, vai trò rất quan trọng là kết nối doanh nghiệp với các quỹ tài chính xanh, giúp doanh nghiệp tiếp cận vốn để đầu tư giảm phát thải, sau đó trả nợ bằng chính lượng tín chỉ các-bon được tạo ra.
Để có tín chỉ các-bon, bắt buộc phải trải qua một quy trình nghiêm ngặt gồm: Khảo sát và đăng ký hiện trạng (baseline); Xây dựng dự án giảm phát thải; Thiết lập hệ thống MRV (Đo đạc - Báo cáo - Thẩm định); Đơn vị thẩm định độc lập cấp tín chỉ. Trên thế giới, không nhiều đơn vị đủ năng lực thẩm định và cấp tín chỉ (chưa đến 100 công ty, trong đó khoảng 20 đơn vị lớn, uy tín). Họ chủ yếu là các công ty tư nhân quốc tế. Điều này là thông lệ toàn cầu, không riêng Việt Nam.
Muốn tạo tín chỉ các-bon từ dừa hoặc lúa, nông dân phải làm gì thưa ông?
Nông dân không thể “ngồi không có tiền”. Muốn có tín chỉ các-bon phải có dự án được phê duyệt; đo đạc hiện trạng phát thải ban đầu; thực hiện biện pháp giảm phát thải; ghi chép nhật ký canh tác; có đơn vị đo đạc, thẩm định độc lập. Ví dụ, nếu 1 ha dừa trước đây phát thải 10 tấn các-bon/năm, sau khi cải tiến chỉ còn 5 tấn, thì phần giảm 5 tấn đó tương đương 5 tín chỉ các-bon/ha/năm.
Còn đối với Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, giảm phát thải ở ĐBSCL, đây là một dự án kinh tế thực sự, không phải dự án an sinh. Ngân hàng Thế giới tài trợ 40 triệu USD không hoàn lại và 400 triệu USD vốn vay ODA.
Những vùng chuyên canh dừa quy mô lớn như ở Vĩnh Long có tiềm năng tham gia thị trường tín chỉ các-bontự nguyện thông qua các dự án đo đạc, kiểm định lượng các-bonhấp thụ và giảm phát thải trong canh tác. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.
Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao giảm phát thải là một dự án mang tính kinh tế; không phải dự án xóa đói giảm nghèo, mà là đầu tư sinh lời. Đây là dự án có vốn vay, phải hoàn vốn bằng hiệu quả kinh tế và tín chỉ các-bon. Những giải pháp giảm phát thải lớn, chi phí thấp như tưới ngập khô xen kẽ, thu gom rơm rạ, giảm giống gieo sạ được ưu tiên.
Muốn tạo tín chỉ các-bon từ lúa, nông dân phải thay đổi tập quán:Tưới ngập khô xen kẽ, giảm lượng giống gieo sạ, không đốt rơm, thu gom rơm, áp dụng hệ thống MRV…Lúa được chọn làm trọng tâm vì giảm phát thải lớn, giảm chi phí đầu vào, nâng chất lượng gạo và tăng thu nhập cho nông dân.
Xin cảm ơn ông!





























