| Hotline: 0983.970.780

Nghề xưa níu giữ hồn tơ

Thứ Hai 30/06/2025 , 16:26 (GMT+7)

Người dân làng Cổ Chất từ bao đời nay đã gắn liền với nghề ươm tơ, dù có lúc trầm lúc bổng nhưng chưa bao giờ tắt lửa.

Nghề cũ làng xưa…

Làng Cổ Chất (trước đây gọi là Cổ Hiền) được hình thành từ sự bồi đắp của con sông Ninh Cơ. Từ thời Hậu Lê, cư dân nơi đây sống bằng nghề chài lưới, rồi dần dà phát triển nghề trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa.

Ngay từ đầu thế kỷ XX, tơ Cổ Chất đã nổi tiếng, thu hút giới tư bản Pháp đầu tư nhà máy ươm tơ. Trải qua bao thăng trầm, đây vẫn là làng nghề tơ tằm duy nhất còn sót lại ở Nam Định (cũ).

Làng Cổ Chất hiện đã đổi thay nhiều. Những mái đình cổ nép mình giữa những ngôi nhà tầng khang trang. Cuộc sống hiện đại len lỏi vào từng góc làng, nhưng nghề ươm tơ vẫn còn đó, dù số người gắn bó ngày càng thưa vắng.

Nếu như nông dân ở các làng bên cạnh cuộc sống dựa vào đồng lúa, ruộng khoai thì Cổ Chất lại trông vào bãi bồi ven sông Ninh Cơ. Những nương dâu xanh tốt nuôi dưỡng kén tằm vàng óng - nguyên liệu làm nên những sợi tơ mềm mại, bền đẹp.

Những sợi tơ óng ả được kéo lên từ nồi luộc kén, minh chứng cho sự khéo léo và tinh tế của người dân Cổ Chất. Ảnh: Minh Toàn.

Những sợi tơ óng ả được kéo lên từ nồi luộc kén, minh chứng cho sự khéo léo và tinh tế của người dân Cổ Chất. Ảnh: Minh Toàn.

Bà Lê Thị Thường (thôn Cổ Chất, xã Phương Định, huyện Trực Ninh, Nam Định) cho hay: “Làng chúng tôi ươm cả tơ vàng lẫn tơ trắng, theo mùa vụ. Từ tháng 2, tháng 3 đến tháng 9 âm lịch, khắp làng rộn ràng cảnh kéo tơ, cuối tháng 4, tơ trắng lại phơi đầy trên những sào tre cuối chợ. Nếu còn kén, người dân có thể làm thêm vụ tằm ép vào tháng Chạp”.

Hiện tơ tằm Cổ Chất vẫn giữ quy trình sản xuất truyền thống. Sau hơn 30 ngày từ khi tằm ăn lá dâu đến lúc nhả kén, những sợi tơ mảnh mai được kéo từ guồng quay trong làn khói nghi ngút từ nồi nước luộc kén, bàn tay thoăn thoắt của những người thợ vẫn bền bỉ với nghề. Từng sợi tơ trắng, vàng cứ thế nối nhau, tạo nên những dải lụa mềm mại.

Không chỉ cho tơ, con nhộng sau khi tuốt kén còn là món ăn giàu dinh dưỡng, mang lại nguồn thu phụ đáng kể cho người dân làng Cổ Chất.

Dẫu nghề ươm tơ ở Cổ Chất có lúc thăng trầm, nhưng những người thợ nơi đây vẫn kiên trì bám trụ. Sợi tơ nối dài quá khứ với hiện tại, như chính niềm tự hào của người dân về một làng nghề từng phát triển rực rỡ suốt bao thế kỷ.

Nỗi lo giữ nghề

Hiện nay trước sức ép của quá trình đô thị hóa, nghề ươm tơ ở Cổ Chất cũng đang dần mai một. Những cánh đồng dâu thu hẹp, nguồn kén không còn đủ, buộc người dân phải nhập thêm từ các tỉnh khác như Thái Bình, Hà Nam, Lâm Đồng... Công việc vất vả, thu nhập bấp bênh khiến lớp trẻ ít mặn mà. Ở Cổ Chất, người làm nghề không có khái niệm nghỉ trưa, hiếm ai ngủ sớm dậy muộn. Cả năm họ tất bật bên nong dâu, nong tằm, guồng quay tơ.

Câu tục ngữ "Nuôi lợn ăn cơm nằm, nuôi tằm ăn cơm đứng" phần nào nói lên sự nhọc nhằn của nghề này. Chính vì thế, trong làng giờ chỉ còn khoảng năm hộ dân còn duy trì ươm tơ theo phương pháp truyền thống.

Vợ chồng bà The là một trong số những hộ gia đình hiếm hoi còn ươm tơ thủ công tại làng Cổ Chất. Ảnh: Minh Toàn. 

Vợ chồng bà The là một trong số những hộ gia đình hiếm hoi còn ươm tơ thủ công tại làng Cổ Chất. Ảnh: Minh Toàn. 

Ngoài ra, chi phí đầu vào cao cũng là một trở ngại lớn. Bà Phạm Thị The (55 tuổi, thôn Cổ Chất) chia sẻ: "Giá kén khô nhập vào đã 300.000 đồng/kg, cộng với thuê người ươm tơ mất thêm 250.000 đồng/kg. Chưa kể công sức bỏ ra, rồi kén kém chất lượng còn phải loại bỏ đi nữa...".

Dù vất vả, thu nhập từ nghề này cũng không cao. Hiện tơ thủ công thành phẩm được bán với giá khoảng 900.000 đồng/kg, còn tơ công nghiệp dao động từ 1,2 - 1,4 triệu đồng/kg. Tuy nhiên, ươm tơ công nghiệp đòi hỏi đầu tư lớn, không phải hộ dân nào cũng đủ điều kiện theo đuổi.

Bà Nguyễn Thị Nghê (65 tuổi, thôn Cổ Chất) cho biết: "Mỗi ngày, tám người làm máy cũng chỉ được từ 50 - 70kg tơ thành phẩm. Hàng này chủ yếu xuất sang Campuchia, Lào, Thái Lan... Chúng tôi bán cho thương lái, họ thu gom rồi xuất khẩu".

Những cánh tơ quay miệt mài, như chính người dân Cổ Chất bền bỉ giữ nghề qua bao thăng trầm. Ảnh: Minh Toàn.

Những cánh tơ quay miệt mài, như chính người dân Cổ Chất bền bỉ giữ nghề qua bao thăng trầm. Ảnh: Minh Toàn.

Nghề ươm tơ yêu cầu kỹ thuật cao. "Trẻ đi học về cũng có thể cắt kén kiếm tiền. Già trẻ, lớn bé đều sống nhờ nghề này. Nhưng lợi nhuận thấp quá, chẳng còn mấy ai theo. Tôi không làm công ty, chỉ cố giữ nghề ông bà để lại thôi, chứ các con tôi cũng không theo nghề nữa...", bà The tiếc nuối.

Dù vậy, vẫn còn những người quyết tâm bám trụ. Một số hộ tiếp tục làm tơ thủ công để lưu giữ nghề truyền thống, trong khi lớp trẻ đã mạnh dạn đầu tư máy móc, nhà xưởng nhằm nâng cao năng suất. Dù theo cách nào thì tơ Cổ Chất vẫn giữ được danh tiếng nhờ sợi tơ thanh mảnh, bền chắc, màu sắc sáng đẹp - minh chứng cho sự tinh xảo và tâm huyết của những người thợ làng nghề.

Xem thêm
Cơ cấu lại nông nghiệp, dựng xây nông thôn bền vững ở Bắc Kạn

Bắc Kạn Chuyển động bền bỉ chính từ nội lực ở từng thôn, bản giúp nông nghiệp Bắc Kạn chuyển mình, nông thôn ngày càng giàu đẹp.

Trưởng thôn trúng lớn nhờ chuyển đổi cây trồng

Nhờ mạnh dạn tích tụ đất đai và chuyển đổi từ trồng luồng sang trồng cam, một trưởng thôn ở Thanh Hóa đã thu về 300 triệu đồng ngay trong vụ đầu tiên.

OCOP Tây Ninh kết tinh văn hóa bản địa, phát triển du lịch

Sản phẩm OCOP Tây Ninh kết tinh từ văn hóa bản địa, đang trở thành cầu nối giữa nông thôn và du lịch, góp phần làm giàu sinh kế, bảo tồn giá trị truyền thống.

Bình luận mới nhất