Ở tuổi 80, TS. Nguyễn Ngọc Sinh - nguyên Cục trưởng Cục Môi trường minh mẫn kể về những ngày đầu tiên của công tác quản lý môi trường ở Việt Nam. Dấu vết thời gian như ngưng đọng lại nơi mái đầu đã bạc phơ, nhưng ký ức vẫn còn nguyên vẹn.
TS. Nguyễn Ngọc Sinh - cục trưởng đầu tiên của Cục Môi trường, chia sẻ về những ngày đầu thành lập nên lĩnh vực quản lý môi trường ở Việt Nam. Ảnh: Yên Thi.
Khởi đầu của quản lý môi trường
“Đầu những năm 70 của thế kỷ trước, tôi về công tác tại Ủy ban Khoa học kỹ thuật Nhà nước. Khi đó, trên thế giới đang có cuộc vận động rất lớn để Liên hợp quốc tổ chức Hội nghị Môi trường Con người lần đầu tiên ở Thụy Điển năm 1972.
Tiếp cận được thông tin đó, đọc thêm sách dịch, tôi thấy sốt sắng về môi trường… Những năm ấy ở Việt Nam, chưa mấy người hiểu về môi trường. Ở Ủy ban Khoa học kỹ thuật Nhà nước có tạp chí hoạt động khoa học, chúng tôi đề xuất có chuyên mục môi trường. Vậy là đến năm 1975, tạp chí mở chuyên mục “Bảo vệ môi trường sống”. Như tôi hiểu thì đây là khởi đầu của vấn đề môi trường ở Việt Nam”, ông kể.
Đến năm 1982, Liên hợp quốc vận động tổ chức Ngày Môi trường thế giới (5/6). Khi đó, Ủy ban Khoa học kỹ thuật Nhà nước trình Chính phủ, Chính phủ ra Chỉ thị với nội dung: Từ nay, cứ đến ngày Môi trường Thế giới (5/6) hằng năm, các bộ, ngành, địa phương tổ chức kỷ niệm, cập nhật những tình hình mới về môi trường, đánh giá hiện trạng môi trường của mình và đề xuất những công việc cần làm.
Vậy là năm 1982, Việt Nam lần đầu tiên tổ chức hưởng ứng Ngày Môi trường Thế giới tại Nhà hát Lớn Hà Nội, được truyền thanh trực tiếp khắp cả nước. Đây là sự kiện rất hiếm của một lĩnh vực còn rất mới mẻ ở Việt Nam, cho thấy sự quan tâm của Đảng, Nhà nước tới vấn đề này.
Lễ mít tinh hưởng ứng Ngày Môi trường thế giới được tổ chức tại quảng trường Nhà hát lớn Hà Nội, ngày 5/6/1994. Ảnh: Tư liệu Cục Môi trường.
Những năm 1984 -1985, bắt đầu có sách, báo, tài liệu, hội thảo quốc gia về môi trường khá rầm rộ. Và văn bản thứ hai có ý nghĩa quan trọng trong lĩnh vực này là Nghị quyết 246 của Chính phủ về tăng cường công tác điều tra cơ bản bảo vệ thiên nhiên và môi trường, ban hành vào tháng 6/1985. Đó là văn kiện đầu tiên của Chính phủ tương đối toàn diện và có hệ thống về lĩnh vực môi trường.
Đạt 3 mục tiêu xây nên lĩnh vực quản lý môi trường
TS. Nguyễn Ngọc Sinh cho biết, cơ quan môi trường đầu tiên, theo Nghị quyết 246 được thành lập, là Cục Quản lý chất lượng môi trường, nước và không khí, thuộc Tổng cục Khí tượng Thủy văn.
Sau đó, năm 1990, Hội nghị quốc tế đầu tiên được tổ chức với chủ đề “Môi trường trong lành và phát triển bền vững”, do Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Nguyên Giáp chủ trì, đã thông qua dự thảo "Kế hoạch quốc gia về Môi trường và Phát triển lâu bền 1991-2000”. Mục tiêu chính của kế hoạch này là nâng cao nhận thức của cộng đồng về môi trường, hai là ban hành được một luật về môi trường, ba là có cơ quan cấp bộ quản lý về môi trường.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Bộ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường Đặng Hữu tham gia chiến dịch truyền thông nâng cao nhận thức về môi trường năm 1994. Ảnh: Tư liệu Cục Môi trường.
Khi tổng kết kế hoạch này, thấy rằng, về cơ bản, 3 mục tiêu đều đã đạt được. Bởi cơ quan cấp bộ về môi trường là Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường được thành lập vào cuối tháng 10/1992. Luật Bảo vệ môi trường được thông qua vào cuối năm 1993. Nhận thức về môi trường trong xã hội được nâng cao rõ rệt, khi các tỉnh đều có Ủy ban/Sở Khoa học công nghệ và Môi trường; ở Trung ương có Cục Môi trường - cơ quan đầu tiên chuyên trách quản lý các hoạt động bảo vệ môi trường trong cả nước.
Ngày đó, Cục Môi trường mới thành lập, không nhiều cán bộ, song đã làm được khá nhiều việc. Do môi trường là lĩnh vực vô cùng rộng lớn nên chúng tôi đã khu trú, lựa chọn vấn đề để quản lý tập trung, phù hợp với tiềm lực, nhận thức, trình độ của nước ta. Những vấn đề như quản lý rác thải, môi trường nước, không khí là “tâm điểm”, công cụ báo cáo đánh giá tác động môi trường đã được đưa vào ngay từ thời điểm đó. Tuy nhiên, chưa dám đưa vào Luật các vấn đề như đa dạng sinh học, thảm thực vật hay quy hoạch bảo vệ môi trường bởi chưa có đủ lực lượng quản lý.
Trụ sở Cục Môi trường (trước đây) tại 67 Nguyễn Du, Hà Nội. Ảnh: Tư liệu Cục Môi trường.
Tôi còn nhớ, thời gian đầu, các cán bộ của Cục Môi trường đã làm được việc “kinh thiên động địa” là tham mưu Chính phủ ban hành Chỉ thị 406 cấm sản xuất, vận chuyển, sử dụng và đốt pháo nổ, bởi những tác hại đến sức khỏe con người và môi trường. Sau này, Chính phủ kết luận rằng, đó là một trong những Chỉ thị được thực hiện triệt để nhất.
Tiếp đó, để bảo vệ mảng xanh thiên nhiên, các cán bộ của Cục đã tham mưu Chính phủ ban hành Kế hoạch hành động về bảo tồn đa dạng sinh học của cả nước. Đây cũng là cơ sở để tìm kiếm các nguồn hỗ trợ từ nước ngoài cho công tác bảo tồn ở Việt Nam. Cục cũng đề cập mạnh mẽ đến việc giải quyết hậu quả chiến tranh hóa học...
TS. Nguyễn Ngọc Sinh chủ trì Diễn đàn Bảo tồn đa dạng sinh học ba nước Đông Dương lần thứ nhất tại Hà Nội năm 2001. Ảnh: Tư liệu Cục Môi trường.
Sau khi trực thuộc Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, đến năm 2002, khi Bộ Tài nguyên và Môi trường được thành lập, 3 đơn vị thuộc Bộ có chức năng quản lý nhà nước về các lĩnh vực môi trường là: Cục Bảo vệ môi trường, Vụ Môi trường, Vụ Thẩm định và Đánh giá tác động môi trường. Bên cạnh việc tăng cường và hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về môi trường thuộc Bộ, hệ thống quản lý nhà nước về môi trường đã được hình thành từ Trung ương đến địa phương, góp phần đẩy mạnh công tác quản lý về môi trường trên cả nước.
So với thế giới, Việt Nam đã nhận thức được và hành động được
Nếu như Luật Bảo vệ môi trường được Quốc hội thông qua vào cuối năm 1993 thì đến năm 1998, lần đầu tiên có một văn bản của Đảng chỉ đạo các vấn đề liên quan đến công tác bảo vệ môi trường của đất nước, đó là Chỉ thị số 36-CT/TW của Bộ Chính trị, Ban chấp hành TW Đảng về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Đến ngày 15/11/2004, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 41-NQ/TW về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, với mục tiêu ngăn ngừa, hạn chế gia tăng ô nhiễm, khắc phục ô nhiễm, phục hồi các hệ sinh thái, từng bước nâng cao chất lượng môi trường. Đây là quan điểm chỉ đạo xuyên suốt, là kim chỉ nam cho mọi hành động trong sự nghiệp bảo vệ môi trường ở Việt Nam.
Đặc biệt, đến năm 2013, Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.
Những văn này cho thấy vai trò của lĩnh vực môi trường ngày càng được Đảng, Nhà nước coi trọng. Từ cái khó lúc ban đầu, khi “chưa có gì”, công tác quản lý môi trường tiến triển dần lên, nhận thức về môi trường trong xã hội được lan rộng dần và duy trì bền bỉ các hoạt động ý nghĩa.
Nhận thức về môi trường trong xã hội được lan rộng dần và duy trì bền bỉ các hoạt động ý nghĩa. Ảnh: Tư liệu Cục Môi trường.
Nhìn lại, sau năm 1972, trong thập niên 1981-1990, Chương trình Liên hợp quốc gọi đó là “thập niên nhận thức về môi trường”, Việt Nam đã nhận thức được. Thập niên 1991-2000 là “hành động vì môi trường”, Việt Nam đã hành động được (ra được Luật, ra được tổ chức quản lý là Bộ). Vậy thì so với tầm thế giới, cái tự hào đầu tiên của lĩnh vực môi trường là bắt kịp được với xu thế chung của thế giới. Tuần tự, chúng ta đã làm từ nhỏ đến lớn, từ tập trung vào những trọng tâm chính đến mở rộng dần ra, cùng với sự phát triển của đất nước.
Hãy huy động sức mạnh của toàn dân vào bảo vệ môi trường
Trước câu hỏi của phóng viên: “Theo ông, trước đây, Việt Nam có ở thế bị động trong giải quyết ô nhiễm môi trường?”, TS. Nguyễn Ngọc Sinh nói: “Tôi không nghĩ như vậy! Bởi theo tính toán, nếu tăng 1% GDP thì ô nhiễm môi trường có nguy cơ tăng từ 2-3%. Vậy trong khi chúng ta tăng gần 10% GDP, thì theo lý thuyết đó, môi trường phải tăng ô nhiễm lên 20-30 lần hay 20-30%. Nhưng chuyện đó đã không xảy ra!”.
“Vậy với chuyển đổi xanh, kinh tế tuần hoàn, phát triển bền vững, ông nghĩ gì về xu thế đó?”, TS. Nguyễn Ngọc Sinh chia sẻ: “Khi anh bắt đầu làm về môi trường là anh đã đi vào xu thế đó rồi. Nếu như trước kia, người ta chỉ nói chuyện kinh tế - xã hội thôi thì khi làm môi trường, đã phải đi vào xu thế phát triển bền vững. Thế nhưng, để 3 yếu tố kinh tế - xã hội - môi trường bằng nhau ngay thì rất khó.
Mình chuyển đổi ở chỗ trước đây chưa đưa môi trường vào thành nhiệm vụ trung tâm cùng với kinh tế - xã hội thì bây giờ mình đưa vào thành nhiệm vụ trung tâm. Đây là bước quan trọng nhất về mặt chủ trương, đường lối. Còn chuyển đổi xanh, tuần hoàn là những bước để tiến tới phát triển bền vững. Việt Nam hiện giờ đã có kinh nghiệm từ thực tiễn, có kinh nghiệm của quốc tế, nghĩa là mình vừa có sức mạnh từ nội lực, vừa có sức mạnh của quốc tế để cộng hưởng phát huy”.
Trong dự thảo Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa 13 tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 14 của Đảng viết: "Phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường là trung tâm", đã xác lập rõ vị thế của bảo vệ môi trường.
Cần ứng xử với môi trường bằng đạo đức, huy động sức mạnh toàn dân tham gia bảo vệ môi trường. Ảnh: Thanh Bạch.
Tôi cho rằng, đã đến lúc, Việt Nam cần xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trong nội hàm văn hóa nên có nội dung văn hóa môi trường tiên tiến, trong đó, nhấn mạnh thêm, rõ thêm về đạo đức môi trường.
Trong công tác quản lý môi trường, cần phát huy được sức mạnh của người dân đối với công tác bảo vệ thiên nhiên môi trường một cách tốt nhất, cao nhất; chỉ có như vậy sự nghiệp bảo vệ thiên nhiên môi trường mới tạo sự đột phá.
Muốn huy động được toàn dân bảo vệ môi trường, có 4 trụ cột cần thực hiện, đó là: Người dân được cung cấp đủ thông tin, được chủ động thực hiện, được bảo đảm về mặt pháp luật, được tăng cường năng lực.
Ví dụ, anh làm dự án ở khu vực này, anh cần tham vấn ý kiến của người dân. Anh đến với người ta, anh đưa cả nghìn trang tài liệu, họp dân lại, thuyết minh. Người dân biết gì về phương pháp này với số liệu kia? Họ chỉ biết rằng: dòng sông này, anh làm nhà máy ở đấy, có làm sông bị xấu đi, bị ô nhiễm hay không? Họ chỉ cần 1-2 trang, nói thật rõ ràng những thông tin cần thiết. Khi người dân biết thì bắt buộc anh phải tử tế với dự án của anh.
Đối với các phong trào, hãy tạo mọi điều kiện để người dân tự nguyện làm, thúc đẩy ý thức của họ và họ thấy có ích vì làm điều đó. Khi huy động được sức mạnh toàn dân vào bảo vệ môi trường thì công việc quản lý của mình cũng nhẹ, bởi sự nghiệp bảo vệ môi trường là của toàn dân.























![Khai thác tiềm năng tín chỉ các-bon: [Bài 2] Chuyện ở rừng Pù Hu](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/192w/files/news/2025/12/02/ban-lojpg-nongnghiep-155413.jpg)
![Khai thác tiềm năng tín chỉ các-bon: [Bài 1] Hướng tới nền kinh tế xanh](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/192w/files/news/2025/12/01/a1-nongnghiep-111712.jpg)




