| Hotline: 0983.970.780

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nông nghiệp, môi trường và giá trị thời đại

Thứ Hai 17/11/2025 , 17:35 (GMT+7)
Vươn tới Kỷ nguyên xanh là cách ngành NN&MT, Bộ NN&MT thực hiện ý nguyện 'Đường lên hạnh phúc rộng thênh thênh' cho nhân dân, vì nhân dân của Bác Hồ kính yêu.

Nông nghiệp là nền tảng của nền kinh tế độc lập, tự chủ

Thấu hiểu thực tế lịch sử Việt Nam là nước nông nghiệp, nông nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng đối với kinh tế Việt Nam, xã hội Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu quan điểm: Việt Nam là một nước sống về nông nghiệp. Nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây dựng nước nhà, Chính phủ trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp một phần lớn. Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh.

Bác Hồ trò chuyện với nông dân đang gặt lúa trên cánh đồng xã Hùng Sơn, Đại Từ, Thái Nguyên (năm 1954). Ảnh tư liệu.

Bác Hồ trò chuyện với nông dân đang gặt lúa trên cánh đồng xã Hùng Sơn, Đại Từ, Thái Nguyên (năm 1954). Ảnh tư liệu.

Không chỉ đưa ra quan điểm về vai trò của nông nghiệp đối với tổng thể quốc gia, Hồ Chí Minh còn chỉ ra những vai trò rất cụ thể của nông nghiệp. Theo Bác, nông nghiệp đảm bảo các điều kiện cơ bản nhất cho sự sinh tồn của con người, đó là ăn, mặc và ở cho người dân. Trong sự nghiệp cách mạng, Người chỉ rõ: Muốn kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công ắt phải dựa vào quần chúng nông dân, muốn dựa vào nông dân ắt phải bồi dưỡng lực lượng của họ. Muốn nông dân có lực lượng dồi dào thì phải làm cho họ có ruộng cày, có cơm ăn, có áo mặc, có nhà ở. Mà muốn có cơm ăn, áo mặc, nhà ở thì phải làm nông nghiệp.

Ngoài chuyện ăn, mặc và ở, phát triển nông nghiệp cũng tạo điều kiện cho việc nâng cao đời sống tinh thần, giải quyết các vấn đề xã hội khác của nông dân ở nông thôn. Đặc biệt, Hồ Chí Minh còn khẳng định vai trò của nông nghiệp đối với các ngành kinh tế khác. Theo Hồ Chí Minh, nông nghiệp là “gốc” của các lĩnh vực kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Quan điểm này được Bác nhiều lần khẳng định. Người từng nói: Nông nghiệp cung cấp nguyên liệu, vật liệu để khôi phục tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, công nghiệp và cung cấp lâm thổ sản…; Muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói chung phải lấy việc phát triển nông nghiệp làm gốc, làm chính. Nếu không phát triển nông nghiệp thì không có cơ sở để phát triển công nghiệp vì nông nghiệp cung cấp nguyên liệu, lương thực cho công nghiệp và tiêu thụ hàng hoá của công nghiệp làm ra

 Như một chân lý, độc lập chính trị phải đi liền với độc lập kinh tế, trước hết phải sản xuất ra lương thực, thực phẩm để “đủ ăn”. Trong kháng chiến chống Pháp, Bác luôn nhấn mạnh hai nhiệm vụ chiến lược song hành “kháng chiến” và “kiến quốc”. “Tăng gia sản xuất” đi liền với “thực hành tiết kiệm” để “tự túc, tự cấp”.

Những vựa ngô kiến quốc ven sông Hồng, sông Đáy trong kháng chiến chống Mỹ (năm 1967). Ảnh: Mầu Hoàng Thiết.

Những vựa ngô kiến quốc ven sông Hồng, sông Đáy trong kháng chiến chống Mỹ (năm 1967). Ảnh: Mầu Hoàng Thiết.

Với quan điểm phát triển toàn diện, biện chứng nhưng ưu tiên nông nghiệp, Bác vạch ra hướng đi: Phải lấy nông nghiệp làm chính, nhưng phải toàn diện, phải chú ý cả các mặt công nghiệp, thương nghiệp, tài chính, ngân hàng, giao thông, kiến trúc, văn hóa, giáo dục, y tế,… Các ngành này phải lấy phục vụ nông nghiệp làm trung tâm.

Bác luôn mong muốn nền nông nghiệp còn phải tiến tới giàu mạnh, bền vững. Người nông dân - chủ thể của nông nghiệp phải được học hành, có đời sống văn hóa phong phú để có kiến thức, trình độ, đam mê phát triển nông nghiệp. Về cơ bản, trong bối cảnh hôm nay, quan niệm nông nghiệp là nền tảng của nền kinh tế độc lập, tự chủ vẫn nguyên ý nghĩa thời sự, nông nghiệp phát triển tạo tiền đề để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong thời hội nhập toàn cầu, tư tưởng ấy tiếp tục soi sáng con đường phát triển bền vững của đất nước. Nông nghiệp vững, nông dân mạnh, nông thôn giàu đẹp, văn minh sẽ là điểm tựa cho nền kinh tế phát triển. Lời Bác không chỉ đúng với hôm qua, mà còn mang tầm chiến lược cho tương lai.

Nông dân là lực lượng trung tâm của cách mạng, phát triển, giữ gìn bản sắc

Nếu “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” thì nông dân là thành phần chủ yếu của cách mạng. Bác tổng kết: Kinh nghiệm của Đảng ta trong quá trình cách mạng đã chỉ rõ là nơi nào, lúc nào cán bộ ta giải quyết tốt lợi ích thiết thân của nông dân, nắm vững nguyên tắc liên minh công nông, thì nơi đó, lúc đó cách mạng đều tiến mạnh.

Bác Hồ thăm bà con nông dân tỉnh Bắc Kạn đang thu hoạch lúa mùa (năm 1950). Ảnh tư liệu.

Bác Hồ thăm bà con nông dân tỉnh Bắc Kạn đang thu hoạch lúa mùa (năm 1950). Ảnh tư liệu.

Thế nên một chủ trương rất nhân văn và thiết thực của Bác khi coi nhiệm vụ cơ bản của cách mạng là giải phóng nông dân, bắt đầu bằng việc “người cày có ruộng”. Xét đến cùng, Người đi tìm con đường giải phóng dân tộc, trước hết là giải phóng người nông dân. Bác rất quý trọng nông dân, tin tưởng ở nông dân. Nhà văn Đặng Thai Mai kể năm 1946, khi nhóm chuẩn bị bản Dự thảo Hiến pháp trình Bác, Bác hỏi xem có ai thắc mắc gì không, Đặng Thai Mai băn khoăn “dân chúng ta hiện giờ người mù chữ còn tới 80, 90%”. Bác cười, nói: “Chú là người thảo hiến pháp mà không khéo lại phản động đấy, người cách mạng trước hết phải tin vào nhân dân”. Bác nhắc nhở cán bộ: “Dân rất thông minh. Quần chúng kinh nghiệm sáng kiến rất nhiều. Chỉ cần mình có biết học hay biết lợi dụng mà thôi”.

Là một nhà văn hóa lớn, Bác rất quan tâm tới trang bị văn hóa cho nông dân. Bên cạnh lo miếng ăn, Bác đồng thời lo đến cái chữ, đến trình độ dân trí cho người nông dân.

Bác Hồ đến thăm một lớp bình dân học vụ. Ảnh tư liệu.

Bác Hồ đến thăm một lớp bình dân học vụ. Ảnh tư liệu.

Ngay sau ngày Độc lập, Bác chủ trương ưu tiên hai nhiệm vụ cấp bách là diệt giặc đói, diệt giặc dốt. Đó là tinh thần nhân văn cao cả, là tầm trí tuệ hiếm có trên cơ sở thẳm sâu một tình yêu nước, yêu dân lớn lao hiếm thấy. Bác từng nói: Dân đói, dân dốt là bất hạnh lớn nhất của bất cứ quốc gia nào và ngược lại. Vì vậy, phải làm cho dân hạnh phúc, phải nâng cao đời sống tinh thần, vật chất cho dân, đặc biệt là người nông dân. Bác luôn quan tâm chăm lo đến nếp sống văn hóa cho dân, bởi nông dân chính là hạt nhân xây dựng nông thôn - nơi sản xuất ra của cải vật chất, cái nôi hình thành, nuôi dưỡng, lan tỏa các giá trị văn hóa dân tộc, không gian sinh tồn, nơi kết tinh tinh hoa văn hóa, đạo đức, phong tục và lối sống của con người Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch sử.

Nông thôn là không gian gốc rễ của văn hóa và sức mạnh dân tộc

Như trên đã nói, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nông thôn không chỉ là nơi cư trú của đại bộ phận nông dân mà còn là không gian gốc rễ của văn hóa, đạo đức, nguồn lực, là cội nguồn sức mạnh của cách mạng Việt Nam. Người xem nông thôn như một chỉnh thể kinh tế - xã hội - văn hóa; là chiếc nôi nuôi dưỡng dân tộc suốt chiều dài lịch sử. Vì vậy, khi bàn về chiến lược phát triển đất nước, Hồ Chí Minh luôn đặt nông thôn và nông dân ở vị trí trung tâm, xem đó là “nền của xã hội”, là nơi cần được xây dựng trước để tạo tiền đề phát triển chung.

Bác Hồ chia kẹo cho các cháu thiếu niên nhi đồng trong ngày Người về thăm HTX Nông nghiệp Lai Sơn, Vĩnh Phúc (tháng 3/1958). Ảnh tư liệu.

Bác Hồ chia kẹo cho các cháu thiếu niên nhi đồng trong ngày Người về thăm HTX Nông nghiệp Lai Sơn, Vĩnh Phúc (tháng 3/1958). Ảnh tư liệu.

Trước Cách mạng Tháng Tám, nông thôn Việt Nam nghèo nàn và lạc hậu không phải do bản chất nông thôn yếu kém mà vì chế độ thực dân - phong kiến kìm hãm, bóc lột sức lao động và tước đoạt triệt để quyền làm chủ của người dân. Khi đất nước giành độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: Muốn cho dân giàu, nước mạnh thì phải làm cho nông thôn phát triển trước hết. Bởi lẽ, 90% dân số Việt Nam thời kỳ đó sống ở nông thôn; mọi nguồn lực từ lương thực, thực phẩm đến lực lượng con người đều bắt nguồn từ nông thôn. Nông thôn mạnh thì cả nước mạnh; nông thôn yếu thì đất nước khó mà thoát nghèo.

Điều đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là Người nhìn nông thôn với góc nhìn toàn diện, không chỉ coi đây là vùng sản xuất nông nghiệp mà còn là không gian sống, không gian văn hóa và là nền tảng đạo đức xã hội. Nông thôn là nơi hình thành các giá trị thuần Việt như tình làng nghĩa xóm, truyền thống hiếu học, tinh thần đoàn kết… Những phẩm chất đó, theo Người, là “vốn liếng” quý báu để kiến thiết đất nước sau chiến tranh. Vì vậy, cải tạo nông thôn không chỉ là thay đổi cơ sở vật chất mà phải kết hợp sửa đổi cách ăn, cách mặc, cách ở, cách đi lại, nâng cao dân trí, xây dựng nếp sống mới, xóa bỏ các hủ tục - đúng như Người từng nhiều lần nhấn mạnh trong các bài nói, bài viết.

Trong chiến lược phát triển nông thôn, Hồ Chí Minh coi trọng ba trụ cột: kinh tế - văn hóa - con người. Về kinh tế, Người yêu cầu xây dựng nông thôn mới phải gắn với cơ giới hóa, thủy lợi hóa, hợp tác hóa, nhằm nâng cao năng suất và đưa nông dân thoát khỏi lệ thuộc vào nhỏ lẻ manh mún. Về văn hóa - xã hội, Người nhấn mạnh xây dựng đời sống mới, xóa mù chữ, giữ gìn môi trường làng quê xanh - sạch - đẹp. Về con người, Người xem người nông dân là chủ thể của nông thôn mới: Nông thôn có đổi mới hay không là nhờ vào sự giác ngộ và nỗ lực của chính nông dân.

Bác Hồ thăm xã Nam Cường, Tiền Hải, Thái Bình (26/3/1962). Ảnh tư liệu.

Bác Hồ thăm xã Nam Cường, Tiền Hải, Thái Bình (26/3/1962). Ảnh tư liệu.

Điểm nổi bật nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nông thôn là Người coi nông thôn vừa là nền tảng, vừa là mục tiêu của công cuộc cách mạng. Mọi chính sách phát triển đều phải hướng đến việc cải thiện đời sống nông dân - từ nhà ở, y tế, giáo dục đến nâng cao thu nhập, thực hiện dân chủ cơ sở. Người yêu cầu cán bộ phải “đi đến tận nơi, nhìn đến tận việc”, hiểu nỗi khổ và mong muốn của nông dân, từ đó đề ra chủ trương đúng, bởi mọi đường lối phải xuất phát từ thực tế nông thôn mà ra.

Ngày nay, khi cả nước thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, tư tưởng của Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên giá trị. Nông thôn hiện đại hóa nhưng vẫn phải giữ bản sắc văn hóa; phát triển kinh tế nhưng không hy sinh môi trường; chú trọng công nghệ nhưng phải dựa trên người nông dân - chủ thể trung tâm của mọi thay đổi.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nông thôn không chỉ là một hệ quan điểm phát triển mà còn là tinh thần nhân văn sâu sắc, coi nông dân và nông thôn như “bệ đỡ văn hóa - kinh tế - xã hội” của dân tộc Việt Nam.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề môi trường và bảo vệ môi trường. Việc trồng cây gây rừng, giữ đất, giữ nước, xây dựng đời sống mới gắn với ăn sạch, uống sạch, ở sạch và xây dựng nếp sống lành mạnh trở thành việc quan tâm thường xuyên của Bác.

Chủ tịch Hồ Chí Minh trồng cây đa tại xã Vật Lại, huyện Ba Vì (sáng 16/2/1969 - Mùng 1 Tết Kỷ Dậu). Ảnh tư liệu.

Chủ tịch Hồ Chí Minh trồng cây đa tại xã Vật Lại, huyện Ba Vì (sáng 16/2/1969 - Mùng 1 Tết Kỷ Dậu). Ảnh tư liệu.

Ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, với tầm nhìn chiến lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm quan tâm đến môi trường và bảo vệ môi trường. Trong thời kỳ xây dựng CNXH ở miền Bắc, hằng năm, vào dịp đầu Xuân, thời tiết thuận lợi cho cây cối sinh sôi, phát triển, Người phát động phong trào Tết trồng cây. Bác nói Mùa xuân là Tết trồng cây/Làm cho đất nước càng ngày càng Xuân. Phong trào thi đua trồng cây do Người phát động đã dần trở thành một thói quen, nếp sinh hoạt tốt đẹp của nhân dân ta mỗi dịp Tết đến Xuân về, mang lại hiệu quả thiết thực cho phát triển kinh tế và cải thiện môi trường sống. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết nhiều bài đăng trên báo Nhân Dân để cổ vũ phong trào trồng cây. Cụ thể: “Nông dân phải trồng cây chuẩn bị làm nhà ở” (30/5/1959), “Tết trồng cây” (28/11/1959), “Tết trồng cây đã thắng lợi bước đầu” (19/1/1960), “Bài phát biểu tại Hội nghị tổng kết phong trào sản xuất nông lâm, ngư nghiệp năm 1959” (18/2/1960),  “Tết trồng cây” (28/1/1961), “Năm mới hãy nhiệt liệt tổ chức Tết trồng cây” (1/1/1965), “Tết trồng cây” (5/2/1969)...

Không chỉ khích lệ việc trồng cây mà trong các bài viết, bài nói chuyện và các cuộc gặp, Bác luôn căn dặn mọi người phải bảo vệ cây, hạn chế tối đa việc chặt cây, phá rừng, săn bắn chim thú...

Mục đích trồng cây gây rừng vừa mang lại lợi ích kinh tế, nâng cao đời sống cho nhân dân, tạo cảnh quan đẹp, vừa bảo đảm an ninh, quốc phòng, xây dựng tầm chiến lược lâu dài cho xã hội, cho quốc gia và đóng góp cho lợi ích toàn cầu.

Ngày 9/5/1961, nói chuyện với hơn 2.000 đồng bào, cán bộ, bộ đội đảo Cô Tô (Quảng Ninh), Người căn dặn cần trồng nhiều cây ăn quả, cây lấy gỗ, cây ngăn gió. Theo Bác, trồng cây sẽ đưa lại cho nhân dân nguồn lợi to, lại làm cho xứ sở ta thêm tươi đẹp. Đặc biệt, trồng cây ven biển còn để bảo vệ đê, làm rừng phòng hộ, chống gió cát, chống xói mòn… Người cũng căn dặn phải chú ý đến hiệu quả, thực chất, trồng thì phải chăm, trồng cây nào sống cây đó, trồng thường xuyên chứ không chạy theo phong trào để báo cáo, trồng vì nhìn thấy lợi ích chung và riêng thì việc trồng cây sẽ được duy trì thường xuyên hơn, mà theo Bác, muốn thế thì phải giải thích cho mọi người dân hiểu ích lợi của việc trồng cây để mỗi địa phương, cơ quan, tổ chức, cá nhân coi đó là “một kế hoạch kinh tế lâu dài và liên tục”, “một việc quan trọng chuẩn bị cho công việc xây dựng nông thôn mới nay mai”. 

Tại Hội nghị Tuyên giáo miền núi năm 1963, Người nhắc nhở: Các cô, các chú cần hết sức chú ý vấn đề bảo vệ rừng. Nếu cứ để tình trạng đồng bào phá một ít, nông trường phá một ít, công trường phá một ít, thậm chí đoàn thăm dò địa chất cũng phá một ít, thì rất tai hại. Phá rừng thì dễ, nhưng gây lại rừng thì phải mất hàng chục năm. Phá rừng nhiều như vậy sẽ ảnh hưởng đến khí hậu, ảnh hưởng đến sản xuất, đời sống rất nhiều. Người coi đó là hành vi đem vàng đổ xuống biển, làm thất thoát tài nguyên của đất nước, gây nhiều hệ lụy cho cuộc sống con người và các thế hệ mai sau. 

Trong Thư gửi Đại hội hợp tác xã và đội sản xuất tiên tiến miền núi và trung du, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở: Hợp tác xã nào cũng phải có kế hoạch trồng rừng và tích cực bảo vệ rừng. Nếu rừng kiệt thì không còn gỗ và mất nguồn nước thì ruộng nương mất màu, gây ra lụt lội và hạn hán. Vì vậy đồng bào miền núi và trung du cũng như đồng bào miền xuôi lên tham gia phát triển kinh tế ở đây phải bảo vệ rừng như bảo vệ nhà cửa của mình.

Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ kêu gọi mà Người còn là hiện thân gương mẫu của việc trồng cây, bảo vệ cây xanh. Khi sang thăm các nước, hoặc đón tiếp các nguyên thủ quốc gia, khách quốc tế đến thăm Việt Nam, Người đều tổ chức trồng cây lưu niệm, thể hiện tình hữu nghị, ý thức làm đẹp môi trường sống. Người cũng tạo ra một môi trường tự nhiên tuyệt vời quanh nơi ở của mình, hằng ngày dành thời gian chăm sóc cây cối, hồ cá, chim chóc, vì theo Bác, chúng cần được bảo vệ bởi chúng là những báu vật của thiên nhiên.

Triết học môi trường của thế giới hôm nay nhấn mạnh vào các vấn đề trong sạch hóa môi trường, tôn trọng tự nhiên và kiến tạo một “không gian xanh”. Về phương diện này, Bác Hồ của chúng ta đã đề cập đến rất sớm và là người tiên phong “đi trước thời đại”.

Bác Hồ về thăm xã Nam Chính, Nam Sách, Hải Dương (15/2/1965). Sau khi nói chuyện với cán bộ, đảng viên và nhân dân địa phương, Bác đi kiểm tra các công trình vệ sinh của nhân dân. Ảnh tư liệu.

Bác Hồ về thăm xã Nam Chính, Nam Sách, Hải Dương (15/2/1965). Sau khi nói chuyện với cán bộ, đảng viên và nhân dân địa phương, Bác đi kiểm tra các công trình vệ sinh của nhân dân. Ảnh tư liệu.

Trong tác phẩm "Đời sống mới" (1947), với bút danh Tân Sinh, Bác là người đầu tiên của chính thể dân chủ viết về vấn đề môi trường nông thôn: Về văn hóa, phải làm cho cả làng đều biết chữ, biết đạo đức và trách nhiệm của công dân. Về phong tục, phải cấm hẳn say sưa, cờ bạc, hút xách, bợm bãi, trộm cắp. Phải tìm cách làm cho không có đánh chửi nhau, kiện cáo nhau. Làm cho làng mình thành một làng “phong thuần tục mỹ”. Về vệ sinh, đường sá phải sạch sẽ. Ao tắm giặt, giếng nước uống phải phân biệt và săn sóc cẩn thận.

Như vậy, về môi trường xã hội (văn hóa, phong tục), là phải làm cho mọi người biết chữ, sau đó là biết đạo đức và trách nhiệm công dân, nghĩa là yêu cầu mọi người phải có học vấn và có văn hóa (văn hóa ứng xử đạo đức, đạo lý, ý thức được quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm, bổn phận công dân); đồng thời với việc bài trừ các tệ nạn xã hội (cấm hẳn say sưa, cờ bạc, hút xách, bợm bãi, trộm cắp, chửi nhau, kiện cáo nhau).

Về môi trường tự nhiên, Bác chỉ ra mối quan hệ hữu cơ: Muốn lao động sản xuất tốt thì phải giữ gìn sức khỏe. Muốn giữ gìn sức khỏe thì phải ăn sạch, uống sạch, mặc sạch, ở sạch. Bác đưa ra giải pháp nâng cao nhận thức về môi trường: Cần giáo dục rộng khắp cho nhân dân biết giữ vệ sinh.

Phong trào Vệ sinh yêu nước do Bác khởi xướng được nhân dân cả nước nhiệt tình hưởng ứng tạo thành phong trào thi đua sôi nổi, rộng khắp. Bác rất quan tâm chú ý tới việc giữ vệ sinh nơi đông người, nơi tập thể, vì nơi đó nếu thiếu vệ sinh sẽ rất dễ phát sinh dịch bệnh, Người lo từ việc lớn như vấn đề môi trường sinh thái đến cả những việc rất cụ thể tỉ mỉ như việc toàn dân tham gia diệt ruồi muỗi… Những ngày đầu kháng Pháp và trong cuộc đời hoạt động cách mạng, dù bận trăm công ngàn việc, Người vẫn dành thời gian viết những dòng hết sức cụ thể, chăm lo thiết thực đến sinh hoạt nhỏ nhặt nhất của đồng bào, chiến sĩ.

Đó là sự vĩ đại và cũng thật bình dị, chân tình, sâu sắc, nhân hậu của một tâm hồn lớn.

Sinh thời, Bác Hồ không đề cập đến khái niệm “Xanh”, tuy nhiên, trong suy nghĩ, hành động, lời nói của Người luôn hướng đến những giá trị mang tầm thời đại, là kim chỉ nam cho chương trình hành động của ngành Nông nghiệp và Môi trường trong kỷ nguyên xanh hôm nay và mai sau.

Xây dựng nền nông nghiệp sinh thái, hiện đại, tuần hoàn

 Giá trị mà Chủ tịch Hồ Chí Minh hướng đến luôn là sự bền vững: Độc lập bền vững, ấm no bền vững, hạnh phúc bền vững, mà muốn độc lập, ấm no, hạnh phúc bền vững thì không có gì khác ngoài chân lý: Hạnh phúc, ấm no hôm nay phải đồng thời với gìn giữ cho muôn đời sau. Đó chính là giá trị cốt lõi của phát triển bền vững mà Việt Nam và thế giới đang hướng tới.

Xây dựng nền nông nghiệp sinh thái, hiện đại và tuần hoàn, tạo nền tảng phát triển bền vững. Ảnh: VnEconomy.

Xây dựng nền nông nghiệp sinh thái, hiện đại và tuần hoàn, tạo nền tảng phát triển bền vững. Ảnh: VnEconomy.

Thực hiện lời dạy của Bác và triển khai các chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước về phát triển xanh - bền vững, trong suốt 80 năm kể từ thành lập, ngành Nông nghiệp Việt Nam và ngành Tài nguyên và Môi trường trước đây, ngành Nông nghiệp và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Môi trường hôm nay đã và đang từng bước kiến tạo nền nông nghiệp sinh thái, hiện đại và tuần hoàn, tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững - xu hướng chung của thế giới.

Đặc biệt, trong điều kiện biến đổi khí hậu ngày càng diễn biến phức tạp, bền vững, thân thiện với môi trường, tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ đa dạng sinh học, thúc đẩy việc tái sử dụng và tuần hoàn các nguồn lực trong quá trình sản xuất đang là những điều kiện tiên quyết, là hành trang để ngành Nông nghiệp và Môi trường vững tin bước vào kỷ nguyên xanh, thực hiện ước nguyện gìn giữ cho muôn đời sau của Bác Hồ kính yêu.

Với hệ thống chính sách, quy hoạch tầm nhìn đến công tác quản lý, những hướng dẫn “cầm tay chỉ việc”, nông nghiệp đang vận hành trên nguyên lý bảo vệ, duy trì sự cân bằng sinh thái, các phương pháp canh tác hữu cơ, sử dụng giống cây trồng, vật nuôi, hạn chế thấp nhất thuốc bảo vệ thực vật, phân hóa học, bảo vệ đất đai và nguồn nước; nông nghiệp sinh thái giúp cải thiện chất lượng môi trường, nâng cao giá trị dinh dưỡng của sản phẩm, đáp ứng nhu cầu về thực phẩm sạch.

Việc áp dụng các công nghệ tiên tiến vào sản xuất sẽ nâng cao năng suất, chất lượng và tính cạnh tranh. Các công nghệ tự động hóa, cảm biến thông minh, công nghệ thông tin (IoT) được áp dụng rộng rãi sẽ giúp giảm thiểu thất thoát, tăng hiệu quả sử dụng tài nguyên (nước, phân bón). Các sản phẩm phụ của quá trình sản xuất được tái sử dụng/tái chế, giúp giảm thiểu rác thải, giảm bớt ô nhiễm.

Trong hành trình xanh hóa mạnh mẽ ấy, ngành Nông nghiệp Môi trường luôn ghi nhớ lời Bác dạy, đề xuất và trực tiếp triển khai chính sách hỗ trợ phù hợp, nhất là trong việc đào tạo kỹ thuật cho nông dân, khuyến khích sử dụng công nghệ sạch, cải tiến hệ thống canh tác, góp phần vào mục tiêu giảm thiểu biến đổi khí hậu toàn cầu.

Nâng cao vị thế người nông dân, phát triển nông thôn bền vững

Trong cuộc chuyển mình mạnh mẽ mang tên Chuyển đổi số, ngành Nông nghiệp và Môi trường xác định đây là hành trình nâng cao vị thế người nông dân theo đúng tinh thần số hóa nền hành chính 2 cấp để phục vụ dân tốt hơn. Khi hệ thống cơ sở dữ liệu dân cư, đất đai, sản xuất nông nghiệp được số hóa, việc quản lý của chính quyền sẽ hiệu quả, minh bạch. Đồng thời, giúp người nông dân thực hiện các thủ tục hành chính tiện lợi, nhanh gọn, tiết kiệm thời gian và chi phí.

Người nông dân hạnh phúc trên chính mảnh vườn của mình. Ảnh: Sáng Vi.

Người nông dân hạnh phúc trên chính mảnh vườn của mình. Ảnh: Sáng Vi.

 Chuyển đổi số nông nghiệp giúp nông dân chi phí thấp nhất nhưng thu lại giá trị nông sản ở mức cao nhất. Ngoài ra, còn là các tiện ích: Giúp liên kết giữa nông dân, hợp tác xã và các doanh nghiệp để tạo ra những chuỗi giá trị bền vững; Đảm bảo quyền lợi hợp pháp, bảo vệ người nông dân trước những rủi ro thiên tai, dịch bệnh và biến động thị trường; Hoàn thiện các chính sách tín dụng, bảo hiểm nông nghiệp, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm, nâng cao khả năng tiếp cận thị trường.

Một nền nông nghiệp sinh thái, hiện đại, tuần hoàn kết hợp với chuyển đổi số sẽ mở ra sự kết hợp giữa nông nghiệp và du lịch, giúp người nông dân nâng cao vị thế và thu nhập qua các hình thức nông nghiệp xanh, du lịch nông thôn, du lịch trải nghiệm tại các làng nghề, các trang trại, các vùng chuyên canh…

Trà Leng - địa phương miền núi của TP Đà Nẵng đang huy động nguồn lực xây dựng nông thôn mới. Ảnh: Đ.V.P.

Trà Leng - địa phương miền núi của TP Đà Nẵng đang huy động nguồn lực xây dựng nông thôn mới. Ảnh: Đ.V.P.

Nâng cao vị thế người nông dân sẽ là hạt nhân cho phát triển nông thôn bền vững, tạo thế chân kiềng nông nghiệp - nông dân - nông thôn. Trong đó, xanh, sạch, đẹp, văn minh là mục tiêu của tiến trình hiện đại hóa đất nước, nhằm đảm bảo đời sống ấm no cho người dân, đồng thời gìn giữ môi trường sinh thái và giá trị văn hóa truyền thống như mong muốn của Bác. Nhất là trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gay gắt, việc phát triển theo hướng hài hòa con người và thiên nhiên càng trở nên cấp thiết, giúp bảo đảm sự cân bằng lâu dài cho cả kinh tế, xã hội và môi trường. Một nông thôn phát triển bền vững, ngoài tăng trưởng kinh tế, còn phải bảo vệ, giữ gìn tài nguyên thiên nhiên. Sử dụng hợp lý đất đai, nguồn nước, hạn chế hóa chất, kiến tạo các mô hình sản xuất nông nghiệp sinh thái, hữu cơ và tuần hoàn, giảm thiểu ô nhiễm, bảo tồn đa dạng sinh học. Đây là xu thế chung của thế giới và Việt Nam không thể ngoài cuộc.

Vươn tới Kỷ nguyên xanh

Kỷ nguyên xanh” được hiểu là phát triển kinh tế gắn liền với bảo vệ môi trường, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, hướng tới một lối sống hài hòa, bền vững với thiên nhiên. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu toàn cầu ngày càng phức tạp, xây dựng “Kỷ nguyên xanh Việt Nam” không chỉ là mục tiêu chiến lược, còn là trách nhiệm chung với thế giới.

Ngành NN&MT tiên phong chuyển đổi xanh, chuyển đổi số và chuyển đổi sinh thái nông nghiệp. Ảnh: Cổng TTĐT Chính phủ.

Ngành NN&MT tiên phong chuyển đổi xanh, chuyển đổi số và chuyển đổi sinh thái nông nghiệp. Ảnh: Cổng TTĐT Chính phủ.

Bước sang kỷ nguyên mới, ngành Nông nghiệp và Môi trường xác định tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt là: “Đoàn kết - Dân chủ - Kỷ cương - Đột phá - Phát triển”. Trong đó, tiên phong trong ba xu hướng chuyển đổi lớn: chuyển đổi xanh, chuyển đổi số và chuyển đổi sinh thái nông nghiệp. Đây là con đường tất yếu để phát triển bền vững, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị và khả năng cạnh tranh của nông nghiệp Việt Nam, đồng thời bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu.

Có thể thấy, từ những năm 2000 đến nay, hàng loạt chiến lược và quy hoạch ngành Nông nghiệp và Môi trường đã được ban hành, cụ thể hóa định hướng của Đảng, với mục tiêu đến năm 2030, tầm nhìn 2045-2050. Từ chiến lược Phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững; Bảo vệ môi trường quốc gia; Quy hoạch không gian biển; Phát triển lâm nghiệp; thủy lợi… đều xác định: nông nghiệp sinh thái và môi trường trong lành là trục xuyên suốt. 

Năm 2025 là dấu mốc cực kỳ quan trọng trong hành trình 80 năm ngành Nông nghiệp và Môi trường. 2025 là năm đầu tiên cả nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, cũng là năm ngành Nông nghiệp và Môi trường bước vào hành trình vươn tới kỷ nguyên xanh. 

Trong kỷ nguyên xanh, một Việt Nam có nền nông nghiệp sinh thái, môi trường an lành sẽ không chỉ là khẩu hiệu, mà trở thành hiện thực, nơi con người sống hài hòa với thiên nhiên, kinh tế phát triển dựa trên nền tảng tài nguyên tái tạo, mọi hoạt động sản xuất và tiêu dùng đều hướng tới cân bằng hệ sinh thái. Mở đầu kỷ nguyên xanh, giai đoạn 2025-2045, tầm nhìn 2050 sẽ là bước ngoặt quan trọng để Việt Nam khẳng định vị thế quốc gia phát triển bền vững, phát triển gắn liền với bảo vệ môi trường, lấy con người là trung tâm, nông nghiệp là nền tảng, nông thôn là không gian phát triển, nông dân là chủ thể của quá trình đổi mới. Khi nông nghiệp và môi trường được đặt ngang hàng với các trụ cột kinh tế - xã hội, mọi thành tựu sẽ mang tính lâu dài, bền vững cho muôn đời sau.

'Kỷ nguyên xanh' là tầm nhìn thời đại về một quốc gia phát triển bền vững. Ảnh: Mai Hoài.

"Kỷ nguyên xanh” là tầm nhìn thời đại về một quốc gia phát triển bền vững. Ảnh: Mai Hoài.

Để có một Việt Nam xanh, Việt Nam an lành, hạnh phúc đúng như ước nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh và định hướng phát triển của Đảng, vươn tới kỷ nguyên xanh là sứ mệnh, là mục tiêu, là trách nhiệm lớn lao của ngành Nông nghiệp và Môi trường.

Giảm phụ thuộc vào khai thác tài nguyên, tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ và năng lượng tái tạo. Áp dụng công nghệ sạch, khuyến khích kinh tế tuần hoàn. Phát triển nông nghiệp sinh thái, đô thị xanh, giao thông xanh… hướng đến nền kinh tế carbon thấp. Tiết kiệm điện, nước, hạn chế rác thải nhựa, tiêu dùng có trách nhiệm... cánh cửa kỷ nguyên xanh đang thôi thúc ngành Nông nghiệp và Môi trường hành động.

“Kỷ nguyên xanh” là tầm nhìn thời đại về một quốc gia phát triển bền vững, là cam kết đối với thế hệ tương lai, vì tương lai. Hành động vì “Kỷ nguyên xanh” là cách ngành Nông nghiệp và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Môi trường thực hiện ý nguyện “Đường lên hạnh phúc rộng thênh thênh” cho nhân dân, vì nhân dân của Bác và hiện thực hóa mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” của Đảng ta.

* Các trích dẫn trong bài viết được dẫn từ "Hồ Chí Minh toàn tập", H.2011, Nxb Chính trị Quốc gia; "Hồ Chí Minh với văn nghệ sỹ, văn nghệ sỹ với Hồ Chí Minh"; "Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử", H.2006, Nxb Chính trị Quốc gia.

Tin liên quan

Những đời thường cũng có bóng hoa che

Những đời thường cũng có bóng hoa che

Từ Cách mạng Tháng Tám mở ra kỷ nguyên Độc lập đến kỷ nguyên vươn mình của đất nước hôm nay, 'bóng hoa' hạnh phúc vẫn luôn 'che' đến mọi 'đời thường'.