Tại sao anh không có thơ tình nhỉ? Có lần hỏi Phạm Tiến Duật. - Thế nào là thơ tình? Anh vặn lại. Tôi dẫn ra một vài của Xuân Diệu, Xuân Quỳnh, của Aragông, Êxênhin.... để làm cứng câu hỏi của mình. Duật không phản ứng gì (hoặc là chẳng thèm phản ứng vì cái điều quá ư dễ hiểu ấy). Một lát, anh bất ngờ bật lên: Và K. ơi anh vẫn buồn như thế/ Anh vẫn cầm câu hát đó của em/ Anh vẫn cầm hơi thở đó của em (Vì không nhớ tên thật của người trong bài thơ, K. là cái tên tôi đành nghĩ ra vậy). Bài thơ rất “tình” và hay, chừng mười lăm câu chi đó, Duật đọc một mạch với nhiều cảm xúc. Và không thêm một lần đọc lại, dù tôi cố ép.
Nếu bảo rằng Phạm Tiến Duật chưa công bố một bài thơ tình nào hiểu theo nghĩa kinh điển thì cũng đúng, mà bảo rằng thơ anh, chỗ nào cũng hiện diện tình cảm, tình yêu nam nữ thì càng đúng.
Chỉ có người lính mới hút hồn khi va vào những dòng hiện thực: “Có lẽ nào anh lại mê em/ Một cô gái chưa nhìn rõ mặt”. Bởi vì với họ, nói vậy là không phải vậy, nói vậy nghĩa là anh đang mê em lắm đấy.
Khi Phạm Tiến Duật viết ra: “Nghe em hát mà anh buồn cười/ Nhịp với phách xem chừng sai cả” thì người lính hoàn toàn hiểu rằng không có sự “buồn cười” nào cả mà chỉ có sự thương cảm và tình yêu dành cho cô gái, vì sự tận tâm phục vụ và vì...
Thơ tình yêu của Phạm Tiến Duật không lên gân, không chuốt chữ, không ẩn dụ nát óc (trái lại, thơ tình kinh điển thì cứ luôn như thế hoặc phải như thế!), và rất thật như mọi tứ thơ khác của anh. Chỉ như thốt lên thế này thôi mà khi đọc cứ thấy gai người: “Anh nhớ em, trời ơi, anh nhớ lắm!”.
Trở lại với điều hình như tôi đang “than vãn” là Phạm Tiến Duật không có thơ tình theo nghĩa người ta vẫn nghĩ; vâng, thì bỗng một hôm, tôi sửng sốt vì một phụ nữ tuổi đã ngoài 60 mà gương mặt vẫn đẹp, bảo: “Tôi có mấy tập thơ tình mà Phạm Tiến Duật tự tay viết tặng...”.
Đầu đuôi như sau: Những ngày đầu mới trở lại bệnh viện, Phạm Tiến Duật vẫn được người bạn gái của mình, chị Bình, sáng sáng dìu đi quanh quanh như một liệu pháp điều trị. Một bận, khi anh trở về ngang chiếc ghế trước phòng anh nằm, bỗng nghe tiếng nói: “Chào anh Duật, tôi là Mai, Tuyết Mai Tây Bắc đây...”. Chỉ mới nghe thế, cả hai – người đàn bà đang ngồi và người đàn ông đang được dìu - đã nhào vào nhau. Trong khi chị ràn rụa nước mắt thì Duật ôm hôn rất lâu, rất âu yếm lên khuôn mặt của người phụ nữ.
Rõ ràng anh quá bất ngờ trong cuộc gặp này. Mãi sau anh vẫn còn lẩm bẩm tiếng được, tiếng mất: “May quá,.... quá!” với vẻ xúc động. Sau này, chị còn đến thăm anh mấy lần, lúc thì hát hay đọc cho anh nghe những khúc thi ca thuở Tây Bắc, thuở kháng chiến; lúc thì chỉ đơn giản ngồi bên xoa bóp đôi bàn tay anh rất lâu, lặng lẽ với bao hồi niệm.
Nhiều người có mặt lúc đó đã không biết rằng đôi mắt của người phụ nữ ấy không còn nhìn thấy gì nữa (và đôi mắt của anh Duật cũng gần như vậy). Mấy tháng trước chị được nghe nói Phạm Tiến Duật đang bệnh nặng nhưng không biết anh ở đâu. May sao khi anh nhập viện ai đó biết gọi điện cho chị chỉ nơi anh nằm. Chị nhờ người dắt đến, phải lần thứ hai mới gặp được. Chị tự giới thiệu: “Tôi là Tuyết Mai, hơn anh Duật hai tuổi, bạn cùng thời quân khu Tây Bắc. Hồi đó, anh từng viết một kịch bản biểu dương người tốt, việc tốt; tôi làm đạo diễn...”. Chị chỉ nói thế và luôn muốn nhấn mạnh sự hơn tuổi của mình, dường như là để “minh bạch” mối quan hệ giữa hai người...
Đó là một sớm Tây Bắc, trời se lạnh, Tuyết Mai bước vào doanh trại một đơn vị cao xạ pháo. Như những thành viên khác của Đoàn văn công Quân khu, chị được phân công xuống đơn vị này để làm công tác phong trào. Cầm súng đứng gác trước cổng là một chiến sĩ trẻ dong dỏng cao, nét mặt rất thư sinh đẹp trai. Tuyết Mai trình bày lý do rồi bước vào. Anh lính đỏ mặt gật đầu, nhưng chị mới qua được mấy bước thì bị gọi giật lại: “Cô... chị gì ơi...” Tuyết Mai dừng bước ngoái đầu, người lính càng đỏ mặt hơn: “Trời lạnh, chị có một chiếc cúc quên cài đấy...”.
Ngay hôm đó Mai biết được tên người lính, binh nhì Phạm Tiến Duật cũng đang là một cây văn nghệ khá nổi của đơn vị. Duật vừa viết xong kịch bản “Cơn lốc xoáy” từ người thật việc thật của đơn vị, pha thêm chút hài hước khiến Tuyết Mai đọc rất thích. Chị có ngay dịp để làm đạo diễn, nghề được đào tạo, cho dù cô gái xinh đẹp ấy thường vẫn phải xuất hiện trong tư thế người dẫn chương trình của Văn công Quân khu.
Vở diễn này sau đó được hoan nghênh nhiệt liệt và còn được mang đi phục vụ các đơn vị bạn. Họ dần quen thân nhau. Duật thường rụt rè trước phụ nữ, với Mai thì càng chỉ quan hệ công việc, không chú ý đến điều gì khác, cho nên thật bất ngờ một hôm anh tưng tửng nói: “Duật muốn đi cùng trời cuối biển với Mai. Yêu thật đấy, yêu lắm đấy!”. Tưng tửng rồi lảng ngay. Dưới mắt Tuyết Mai, Duật luôn là một người trai thông minh, có tài, hóm hỉnh, chưa nói còn là một trí thức trẻ, đẹp trai – tóm lại, một thứ mì chính cánh có giá, rất có giá; chưa nói nữa đó còn là của hiếm giữa cái xứ “cò gáy” này.
Nhưng chỉ thế thôi vì cũng dưới mắt chị, Duật là “cậu em”, kém cả tuổi quân lẫn tuổi đời cơ mà! Bởi vậy, khi Duật nói thế thì Mai chỉ cười. Cho đến khi Duật thêm một lần nữa thì chị chột dạ. Nhất là lúc chứng kiến Duật vừa nói vừa tiện có hòn phấn trên tay vẽ ra không biết bao nhiêu là vòng tròn, vòng méo rối như mớ len rối. Anh bảo: “Với Duật đây là mối tình đầu, thật đấy Mai ạ!...”.
Mất một đêm thao thức kiểm lại lòng mình, Tuyết Mai phải nhận rằng mình cũng có tình cảm với Duật từ lâu. Cái thuở ấy gái hơn tuổi trai là điều tối kỵ trong tình duyên. Chỉ vì lý do đó mà Mai đã không dám nghĩ xa; và cũng chỉ vì lý do đó mà quan hệ giữa hai người sau này cứ như là vụng trộm. Mai ngại đã đành, còn Duật tuy cố thuyết phục Mai rằng chẳng là gì cả về cái sự chênh lệch tuổi, rằng anh đã rút bớt tuổi đi học đấy, nhưng không phải anh không sợ. Anh sợ nhất là các chàng văn công vốn luôn coi các nàng trong đoàn thuộc quyền “quản lý” của mình đã đành, nay nếu lại biết “cậu em Phạm Tiến Duật” kẻ dám xông vào cạnh tranh nữa thì.....
Thế nên mỗi lần muốn hẹn hò, hoặc để làm bình phong, cả hai phải cậy đến một người thứ ba: Bích Liên, cùng đồng hương Hà Nội với Mai, lại rất “hợp lý” là kém tuổi Duật. Nhưng với kẻ tinh ý, cái “bình phong" này đôi khi bị lủng. Duật đỏ tưng bừng mặt khi có ai đó xóc: “Tìm bà chị hả?”, hay xa xôi: “Tiếc quá, cái “bình” Liên đi vắng biết làm sao đây?”. Thế vậy, bên ngoài hai người cứ phải làm lạnh, và ngoài lạnh bao nhiêu thì lửa trữ bên trong tương ứng bấy nhiêu.
Với Phạm Tiến Duật, lửa tức khắc bén bùng thành thơ. Nhưng tập thơ mỏng: “Búp bê nhỏ”, “Hoa Mai trên Tuyết”, “Mặt trời của anh”... bằng giấy học trò hoặc giấy pơluya, tự tay Phạm Tiến Duật vẽ bìa và minh họa rất đẹp, lần lượt đến với Tuyết Mai.
Thơ tình buổi ấy của Phạm Tiến Duật thế nào? Được hỏi, Tuyết Mai bối rối một lát rồi nhớ lại: “Rừng xanh, ban trắng, rừng xanh/ Ban em là để rừng anh bế bồng”; “Em là tuyết mà gần em ấm thế”; “Chiều dần buông tím xa xa/ Tím ru nhè nhẹ tình ta mỗi chiều/ Chiều ơi mờ nhạt phiêu diêu/ Tím nâng câu hát mỗi chiều tình ta”....
Những tập thơ ấy bây giờ ở đâu? Chị Tuyết Mai buồn rầu cho biết, nơi mà Đoàn văn công Tây Bắc phục vụ thời đó luôn là chiến trường Lào. Lần nào hành quân sang bên ấy, trong ba lô tôi cũng có những tập thơ của anh Duật. Rồi một lần bom rơi nơi đóng quân, mọi thứ cháy hết, chỉ may còn người. Thật tiếc quá!
Rồi Duật vào Trường Sơn, trở thành nhà thơ lẫy lừng của cả nước! Chị mừng cho anh, lẫn cả bồi hồi. Hoà bình trở về, mãi cách đây mười mấy năm hai người mới lại gặp nhau. Cũng tình cờ và bất ngờ, trong lễ khai trương một quán bar mà chủ nhân ngẫu nhiên lại quen thân cả hai người. Bữa đó mắt Tuyết Mai còn sáng, hai người đã có một buổi tối thật êm đềm. Rồi lại phải hơn mười năm sau nữa, mới có cuộc tái ngộ trong bệnh viện lần này.
Thành gia thất cả rồi, chuyện xưa chỉ còn là hoài niệm. Nhưng hoài niệm là năng lượng dạng sóng, nó xô vào và gậm nhấm trái tim ta! Tuyết Mai bảo sau này, khi nghe thiên hạ nói về những sự không bình yên trong cuộc sống riêng của anh, về sự cô đơn và những khó khăn của anh, chẳng rõ thực hư thế nào, chị ngồi ra một góc nhà cho nước mắt chảy; rồi cứ nghĩ rằng giá như ngày ấy... “Vâng, ngày ấy không ai biết quan hệ của chúng tôi, bây giờ cũng vẫn vậy. Cả hai chúng tôi tự chôn chặt, như thế nhẹ nhàng hơn...”...
Tháng 11/2007