Trong dòng chảy 100 năm Báo chí Cách mạng Việt Nam, Báo Nông nghiệp và Môi trường với tiền thân là Báo Tấc Đất cũng có tuổi đời tròn 80 năm. Tờ báo đã có những sự kiện và con người sáng danh trong làng báo từ nhiều vị trí khác nhau: nhà quản lý, nhà khoa học, phóng viên, biên tập viên… Dù với tên gọi nào, ở thời kỳ lịch sử nào, Báo Nông nghiệp và Môi trường luôn là cơ quan tuyên truyền tích cực về nông nghiệp, nông thôn, tài nguyên và môi trường nước nhà.
Tấc Đất - Tờ báo được Chủ tịch Hồ Chí Minh giới thiệu
Báo Tấc Đất - Cơ quan cổ động sản xuất của Bộ Canh nông (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) được Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam) thành lập theo Nghị định số 129 ngày 4/12/1945 của Bộ Nội vụ.
Ngay trên số báo đầu tiên, phát hành ngày 7/12/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài: “GỬI NÔNG GIA VIỆT - NAM” giới thiệu về Báo Tấc Đất.

Báo Tấc Đất năm 1945.
Câu tục ngữ: "Tấc đất tấc vàng" ngày nay có hai ý nghĩa:
Báo "Tấc đất" sẽ chỉ bảo cho anh chị em nhà nông làm thế nào cho nông nghiệp mau chóng tiến bộ. Sự chỉ bảo của báo Tấc đất cũng quý hóa như tấc vàng.
Loài người ai cũng "dĩ thực vi tiên" (nghĩa là trước cần phải ǎn); nước ta thì "dĩ nông vi bản" (nghĩa là nghề nông làm gốc). Dân muốn ǎn no thì phải giồng giọt cho nhiều. Nước muốn giàu mạnh thì phải phát triển nông nghiệp. Vậy chúng ta không nên bỏ hoang một tấc đất nào hết. Chúng ta phải quý mỗi tấc đất như một tấc vàng.
Vì cứu quốc, các chiến sĩ đấu tranh ở ngoài mặt trận, vì kiến quốc, nhà nông phấn đấu ngoài đồng ruộng. Chiến sĩ ra sức giữ gìn nước non. Nhà nông ra sức giúp đỡ chiến sĩ. Hai bên công việc khác nhau, nhưng thật ra là hợp tác. Cho nên hai bên đều có công với dân tộc, đều là anh hùng.
Hiện nay chúng ta có hai việc quan trọng nhất: cứu đói ở Bắc và kháng chiến ở Nam. "Thực túc thì binh cường", cấy nhiều thì khỏi đói. Chúng ta thực hiện "tấc đất, tấc vàng" thì chúng ta quyết thắng lợi trong hai việc đó.
Tǎng gia sản xuất! Tǎng gia sản xuất ngay! Tǎng gia sản xuất nữa! Đó là khẩu hiệu của ta ngày nay. Đó là cách thiết thực của chúng ta để giữ vững quyền tự do, độc lập.
Hỡi anh em nhà nông, tiến lên! tiến lên!
Vinh dự này không chỉ đến một lần với Báo Tấc Đất (nay là Báo Nông nghiệp và Môi trường). Đúng ngày Quốc tế Lao động (1/5/1946) trên số 10 Báo Tấc Đất, lại vinh dự đăng thông điệp Gửi Điền chủ Nông gia Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Việt Nam ta là một nước sống về nông nghiệp. Nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây dựng nước nhà, Chính phủ trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp một phần lớn.
Nông dân ta giầu thì nước ta giầu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh. Nông dân muốn giầu, nông nghiệp muốn thịnh, thì cần phải có HỢP TÁC XÃ…”.
Tất nhiên, sau 80 năm, mô hình hợp tác xã nông nghiệp đã có nhiều thay đổi; tuy nhiên, thông điệp của Hồ Chủ tịch gửi Điền chủ Nông gia Việt Nam “Hợp tác xã nông nghiệp là một cách làm cho nhà nông đoàn kết, làm cho nông nghiệp thịnh vượng” đến nay vẫn còn nguyên giá trị!
Trong suốt chiều dài lịch sử, để phù hợp với từng giai đoạn của Cách mạng, Bộ Canh nông đã nhiều lần được đổi tên. Vì vậy tờ báo - cơ quan ngôn luận của Bộ cũng mang nhiều tên gọi khác nhau (trên cơ sở chia tách, sáp nhập các tờ báo) để thực hiện nhiệm vụ chính trị tuyên truyền, như: Tập san Canh Nông, Báo Toàn Dân Canh Tác, Báo Nông Lâm, Báo Khoa học kỹ thuật nông nghiệp, Báo Nông nghiệp Việt Nam và hiện nay là Báo Nông nghiệp và Môi trường. Dù tên gọi có khác nhau nhưng mục đích chung nhất của tờ báo vẫn là “mong cho nước thịnh dân cường” như thông điệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh đăng trên Báo Tấc Đất.
Giở trang “Tấc Đất” trước đèn
Sau “Tuyên ngôn độc lập” thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được 2 tháng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các thành viên Chính phủ Lâm thời đã xác định: “Việt Nam là một nước nông nghiệp. Muốn giải quyết vấn đề nông nghiệp cả về phương diện xã hội và phương diện chuyên môn, cần phải có một cơ quan tối cao để điều hành.
Vì vậy, Chính phủ đã xúc tiến ngay việc thành lập Bộ Canh nông. Cụ thể, trong phiên họp ngày 14/11/1945, Hội đồng Chính phủ đã quyết định thành lập thêm Bộ Canh nông.
Bộ Canh nông ra đời thực hiện 2 nhiệm vụ: I)- Thực hiện chương trình tăng gia sản xuất cấp tốc ở Bắc bộ và miền Bắc Trung bộ để giải quyết một phần vào nạn đói đang đe dọa đồng bào. II)- Sửa soạn một nền tảng chấn hưng nông nghiệp để mở đường phát triển cho một nền kinh tế nông nghiệp quốc gia sau này.
Hội đồng Chính phủ cử ông Cù Huy Cận giữ chức Bộ trưởng Bộ Canh nông. Mới 26 tuổi, kỹ sư Cù Huy Cận được Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn làm Bộ trưởng Bộ Canh nông đầu tiên. Ông đã cùng nhiều đồng sự của mình kiến thiết và xây dựng Bộ trong những ngày đầu tiên đất nước “ngàn cân treo sợi tóc”.
Chỉ hai ngày sau khi tựu chức, ngày 16/11/1945, Bộ trưởng Cù Huy Cận đã ký Tuyên bố của Bộ Canh nông thông báo về nhiệm vụ của Bộ. Đồng thời, ông đã tập hợp được xung quanh mình những nhà chuyên môn về Nông nghiệp đứng đầu ở thời điểm đó như Kỹ sư Hoàng Văn Đức làm Tổng Giám đốc Nha Nông chính; các bác sĩ Trịnh Văn Thịnh, Phan Đình Đỗ, Đồng Sỹ Hiền, Bùi Huy Đáp… người phụ trách ngành Lâm nghiệp, người phụ trách ngành Thú y - Chăn nuôi (mà thời đó gọi là Nha Thú y - Mục súc)…

Bộ trưởng Bộ Canh nông Cù Huy Cận.
Ngay sau khi thành lập, Bộ Canh nông đề xuất với Chính phủ xuất bản tờ báo làm cơ quan cổ động, vận động sản xuất và hướng dẫn kỹ thuật sản xuất cho nhân dân. Ngày 4/12/1945, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp ký Nghị định số 129 thành lập Báo Tấc Đất - Cơ quan cổ động sản xuất của Bộ Canh nông. Ông Hoàng Văn Đức, kỹ sư nông học, Tổng Giám đốc Nha Nông chính thuộc Bộ Canh nông làm Chủ nhiệm báo. Trụ sở của Báo Tấc Đất đặt tại số 20 Lý Thái Tổ, (sau chuyển xuống 109 phố Bà Triệu), Hà Nội. Báo phát hành 1 kỳ/ tuần. Khuôn khổ 30x42. 4 trang. In 2 màu tại Nhà in Lê Văn Tân. Giá bán: 7 hào. Phát hành đến Ủy ban Hành chính, các Ban Tăng gia sản xuất tỉnh, huyện, xã và các cơ sở canh nông. Ông Đồng Sỹ Hiền làm Chủ nhiệm báo tiếp sau ông Hoàng Văn Đức và ông Vũ Công Hậu làm Chủ bút Báo Tấc Đất trong năm 1946.
Lần giở lại từng trang Báo Tấc Đất đã tròn 80 năm tuổi đời, nhiều trang đã ố vàng với gánh nặng thời gian không khỏi khiến người xem xúc động như được gặp lại tiền nhân qua từng bài viết, từng chuyên mục:
Ví dụ như “Chương trình tăng gia sản xuất cấp tốc”, Điền chủ nông dân đoàn kết trong Chương trình tăng gia sản xuất nhằm: 1- Sử dụng đất mầu bỏ hoang ở các làng; 2- Ra sức khai khẩn diện tích các đồn điền, trại ấp; Những phương pháp sản xuất cấp tốc nêu cụ thể Các thứ cây mầu nên trồng ngay là khoai lang, ngô và các loại đậu, các loại bầu bí. Báo Tấc Đất hướng dẫn cụ thể: “Nếu có giống nên trồng khoai lang hơn cả các mầu khác vì khoai lang mọc khỏe, đất xấu cũng lên vả lại bất luận mùa nào trồng cũng có thể được (…) Khoai tuy mọc khỏe nhưng nếu muốn có nhiều củ nên chọn những đất nhẹ và thoáng. Những đất thịt, những đất bí quá nên để trồng ngô. Vạn nhất nếu muốn trồng khoai thì phải đánh thành những luống cao…”. Trên báo cũng hướng dẫn “Trứng ngài phải giữ gìn như thế nào?”; phương pháp tiễu trừ chuột và bọ phá hoại mùa màng, cách đánh bả chuột…
Mục Vấn đáp Canh nông cung cấp thông tin cho nhà nông về phương pháp trồng gấc, phương pháp làm đường trắng, xuất cảng dầu quế,…
Về mô hình sản xuất nông nghiệp, Báo Tấc Đất có nhiều bài về: Cách thức lập hợp tác xã nông nghiệp, Lập hợp tác xã nông nghiệp để đấu tranh bằng kinh tế, Nguyên tắc căn bản của tổ chức hợp tác xã nông nghiệp, Điều lệ kiểu mẫu lập hợp tác xã nông nghiệp,…
Từ năm 1946, Bộ Canh nông đã qua Báo Tấc Đất nêu sự cần thiết của việc bảo vệ rừng qua thông điệp Sự cần thiết của Ủy ban Nghiên cứu Lâm chính (ngày nay gọi là Lâm nghiệp - PV).
Báo Tấc Đất đã phản ánh sự tán phá rừng núi với những lời cảnh tỉnh người dân Việt Nam: “Tôi không phải là thi sĩ thương tiếc những cảnh rừng rậm nên thơ, tôi không phải tín đồ lo lắng cho các thần linh không còn cây cao bóng cả để nương mình, tôi là một người công dân đứng trước một tình trạng tàn phá rất đau thương, rất nguy hại”.
Kỹ sư Đồng Sỹ Hiền phân tích “Rừng núi trước phong trào tăng gia sản xuất” đã thẳng thắn nêu: “Đành rằng nghề nông phát triển phải ăn lấn vào đất rừng, nhiều cánh rừng rồi phải nhường chỗ cho ruộng đất, nhưng không phải rừng nào cũng có thể phá làm ruộng được”.
Từ đó, Bộ Canh nông ra Thông cáo: “Một Ủy ban nghiên cứu những vấn đề lâm chính sẽ thành lập vào thượng tuần tháng 8 dương lịch sắp tới (1946), có nhiệm vụ tìm một cơ sở thích hợp với hoàn cảnh hiện tại của nước nhà để đặt làm nền tảng cho một chế độ lâm chính... dung hòa được quyền lợi quốc gia với quyền lợi những đồng bào thiểu số, nhân dân những vùng có rừng núi, những nhà khai thác và buôn bán lâm sản…”.
Tổng Biên tập đầu tiên: Kỹ sư Hoàng Văn Đức
Nhà riêng của Kỹ sư Hoàng Văn Đức trên gác hai một con ngõ phố Tràng Tiền. Nhà này do Chủ tịch UBND TP Hà Nội - Bác sĩ Trần Duy Hưng can thiệp để phân chia cho ông bà Hoàng Văn Đức sau những sóng gió một thời. Làm giảng viên trường Đại học Nông nghiệp mới thành lập, một thời gian sau làm kỹ sư phụ trách hướng dẫn kỹ thuật cho Nông trường 2/9 ở Hoà Bình.
Năm 1973, kỹ sư Hoàng Văn Đức nhận quyết định nghỉ hưu theo nguyện vọng dù ông mới 55 tuổi. Trở về Hà Nội, làm người hàng phố, ông tham gia MTTQ phường Tràng Tiền, sống bình dị với chức phận của một cán bộ hưu trí cuối bảng. Vậy mà nhà ông luôn đông bạn bè trí thức hàng đầu đến chơi. Trên căn gác ấy, họ lại cùng nhau rôm rả bàn về chuyên môn ngành Nông nghiệp, về chuyện trào phúng với bao điều lạc quan trong những nỗi niềm đã qua của một thời tuổi trẻ.
Một thời tuổi trẻ đã qua của ông Hoàng Văn Đức - Tổng Giám đốc Nha Nông chính (Bộ Canh nông) - là những tháng ngày từ mùa thu năm 1945. Đất nước trong tình thế hiểm nghèo, thù trong giặc ngoài, đồng hành là ba thứ giặc: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Trong đó, giặc đói được coi là nguy cơ trước mắt lớn nhất. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của Bộ Canh nông là phải đẩy lùi giặc đói. Các bậc nhân sĩ, trí thức khắp cả nước đã hiến kế giúp Chính phủ và Bộ Canh nông chống giặc đói. Cụ thể là hai biện pháp cứu đói khẩn cấp: giải pháp trước mắt là nhường cơm sẻ áo và giải pháp lâu dài là tăng gia sản xuất.

Kỹ sư Hoàng Văn Đức - Tổng Biên tập Báo Tấc Đất.
Phong trào nhường cơm sẻ áo được phát động trong cả nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh gương mẫu thực hiện 10 ngày nhịn ăn một bữa để dành gạo cứu đói. Nhà nước cũng tổ chức những địa điểm phát chẩn để cung cấp cơm, cháo hay bất cứ thức gì ăn được cho những người sắp chết đói. Nhờ đó, hàng vạn người chờ chết, hàng vạn thân thể chỉ có da bọc xương đã được cứu sống. Chẳng bao lâu, bằng biện pháp cứu đói khẩn cấp nhường cơm sẻ áo, cảnh chết đói gần như đã chấm dứt.
Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào số lúa gạo có sẵn để cứu đói thì chỉ là giải pháp cầm cự nhất thời. Biện pháp lâu dài là phải tăng gia sản xuất. Bộ Canh nông đã trình lên Chính phủ phát động chiến dịch tăng gia sản xuất. Khắp nơi trong cả nước đã đề ra khẩu hiệu “Tấc đất, tấc vàng”, tận dụng mọi nơi mọi chỗ có thể trồng trọt được. Ngay tại Thủ đô Hà Nội và các đô thị, vườn hoa cũng được tận dụng để trồng hoa màu ngắn ngày.
Phong trào sản xuất trong cả nước được phát động rầm rộ bằng mọi hình thức. Sau khi nước lụt rút hết, đã qua mùa cấy lúa, chỉ có thể trồng khoai nhưng khoai thì phải có dây làm giống. Trong tình hình khoai giống khan hiếm vì nhu cầu quá lớn, Kỹ sư Hoàng Văn Đức đã tìm ra giải pháp: lấy dây khoai trồng tạm trong vòng 3 tuần, khoai chưa ra củ nhưng đã ra rễ thì đào lên cắt từng đoạn giống, nhân lên gấp 5, gấp 10 lần để phát triển diện tích trồng khoai. Vụ thu hoạch có thể chậm hơn 2-3 tuần, nhưng diện tích và sản lượng thì tăng 5-10 lần. Chính nhờ sáng kiến đó của Bộ Canh nông và cùng với cố gắng của cả nước, đến năm 1946, nạn đói đã bị đẩy lùi.
Kết quả tốt đẹp này càng củng cố uy tín của Kỹ sư Hoàng Văn Đức. Ông được nhân dân Thủ đô Hà Nội tin yêu bầu vào làm Đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên (1946) cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh, bác sĩ Trần Duy Hưng, bác sĩ Nguyễn Văn Luyện, nhà giáo Nguyễn Thị Thục Viên… Kháng chiến 9 năm về lại Thủ đô, ông được bầu bổ sung làm Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa I…
Không chỉ làm công tác chính quyền và đoàn thể, Kỹ sư Hoàng Văn Đức còn dùng kiến thức chuyên môn của mình để phổ biến khoa học kỹ thuật nông nghiệp cho người dân cả nước. Đất nước Việt Nam với hơn 70% nông dân, điều này hết sức thiết thực và có ý nghĩa lâu dài. Tôi lật giở những cuốn sách cũ, kỹ sư Hoàng Văn Đức còn là tác giả và là dịch giả nhiều cuốn sách về phổ biến kiến thức nông nghiệp. Năm 1948, ông đã cùng kỹ sư Vũ Công Hậu cho ra đời sách Giồng rau, dày 117 trang, khổ lớn, do Bộ Canh nông xuất bản. Cuốn sách khẳng định vị trí của rau xanh trong kinh tế nông nghiệp và giá trị thực phẩm của nó. Đồng thời tác giả cũng giới thiệu các ngành và hình thức kinh doanh trong nghề trồng rau cùng phương pháp và kỹ thuật canh tác từng loại rau.
Năm 1964, để phổ biến kiến thức về vị trí cây gai trên thế giới và trong nền kinh tế quốc dân ở các tỉnh miền Bắc, các giống gai và phương pháp nhân giống, kỹ thuật trồng, thu hoạch và chế biến gai, ông cho ra đời cuốn Trồng gai do Nhà xuất bản Nông thôn phát hành, dày 125 trang.
Ngoài ra, Kỹ sư Hoàng Văn Đức còn viết chuyên khảo về mía đường, dày 296 trang, do Nhà xuất bản Nông nghiệp phát hành năm 1982; Chuyên khảo về việc phát triển cây dừa ở Việt Nam (viết cùng Việt Chy), Nhà xuất bản Nông nghiệp, 1983, dày 181 trang. Đặc biệt, với tầm nhìn xa về nông nghiệp bền vững, trong đó nêu Đề án xây dựng tổng quát trong quan hệ giữa nông nghiệp với thành thị và cộng đồng, ông đã dịch 200 trang sách Đại cương về nông nghiệp bền vững của Bill Mollison và Reny Mia Slay (Nhà xuất bản Nông nghiệp, 1994)…
Cả cuộc đời gắn bó với nông nghiệp
Đó là kỷ lục của Bộ trưởng Nghiêm Xuân Yêm. Đứng đầu ngành Nông nghiệp trong Chính phủ gần 20 năm, trong đó thời gian làm Bộ trưởng Bộ Canh nông (3/1954 - 1955), Bộ trưởng Bộ Nông lâm (1955 - 1960), Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp (1960 - 1963), Bộ trưởng Bộ Nông trường (1963 - 1971). Tháng 4/1971, ông được điều sang giữ chức Phó Chủ nhiệm thường trực Ủy ban Nông nghiệp Trung ương, hàm Bộ trưởng. Từ năm 1976, ông được bổ nhiệm làm Bộ trưởng phụ trách Khoa học và Kỹ thuật Nông nghiệp. Ông đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng và đặt tên đường tại Thủ đô Hà Nội.

Bộ trưởng Nghiêm Xuân Yêm.
Kỹ sư canh nông Nghiêm Xuân Yêm sinh tại làng Tây Mỗ, nay thuộc quận Nam Từ Liêm (Hà Nội). Ông xuất thân trong một gia đình có truyền thống khuyến học và đỗ đạt cao. Tốt nghiệp trung học ở trường Bưởi, ông vào học trường Cao đẳng Nông lâm Brévié. Trước khi tốt nghiệp thủ khoa trường này, ông có thời gian đi thực tập môn học chăn nuôi tại nông trường cà phê Boloven bên Lào. Ra trường, ông về giúp mẹ vợ trông nom ấp ruộng thầu của Cố Hồng ở Tuấn Lương - Hưng Yên. Vài năm sau, ông vay thêm tiền, và bán đồ trang sức của vợ, để mua được một ấp ruộng và đồi ở Sơn Cẩm, Thái Nguyên.
Đồn điền Sơn Cẩm có sẵn cây chè, cây quất cùng vài chục mẫu đất cày cấy và hơn chục con bò. Kỹ sư Nghiêm Xuân Yêm vừa trồng trọt vừa chăn nuôi, vừa trồng lúa vừa trồng cây công nghiệp (chè, cà phê, quất, nhãn), nuôi lợn và nuôi bò sữa, chăn tằm. Quy mô đồn điền không lớn, một mô hình nho nhỏ vừa phải đã giúp ông tích lũy được nhiều kinh nghiệm về nghề nông và sống gần gũi bà con nông dân hai sương một nắng. Thực tiễn đời sống đã trở thành đề tài ông đưa lên trang báo với những bài viết nóng hổi sức sống nông thôn.
Năm 1943 - dấu mốc Nghiêm Xuân Yêm thường xuyên tham gia viết bài trên Báo Thanh Nghị. Báo Thanh Nghị - như Chủ nhiệm Vũ Đình Hòe viết trong hồi ký - “rất chú trọng vấn đề nông thôn, trước coi trọng, nay càng coi trọng, nâng cao sự quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của đông đảo nông dân”. Vị luật gia - Chủ nhiệm báo khi hồi tưởng lại những năm tháng vàng son của tờ báo, đã khẳng định: “Phải ghi một “sự kiện” đáng mừng: anh Nghiêm Xuân Yêm, tháng 4/1943 bắt đầu viết bài cho Báo Thanh Nghị về các vấn đề nông nghiệp”.

Báo Thanh Nghị.
Bài viết đầu tiên của tác giả Nghiêm Xuân Yêm có nhan đề “Vấn đề canh nông ở Bắc Kỳ: Thanh niên trí thức với nghề nông ở xứ nhà” đăng Báo Thanh Nghị số 35 (16 Avril 1943). Các bài báo của ông chuyên viết về nông nghiệp, gắn với đời sống, tâm tư của nông dân và trách nhiệm của người trí thức với nghề nông nước nhà. Nghiêm Xuân Yêm tả cặn kẽ đời sống lam lũ của người nông dân. Qua ngòi bút của ông, người dân quê được mô tả với tất cả sự trọng trị, quý mến, cùng công việc làm ăn cần cù, tâm lý nhẫn nại. Trước “cảnh nghèo ở nông thôn”, nhà trí thức họ Nghiêm kêu gọi thanh niên trí thức Việt Nam:
“Các bạn thanh niên!
Chúng ta hãy mở to mắt để nhận thấy cảnh nghèo ấy. Hãy lắng tai để nghe thấu những tiếng thở dài của dân quê nghèo khổ… Hãy rời khỏi gian phòng hoa lệ… hãy tìm hiểu những cảnh nghèo xót xa, những cảnh nghèo tàn khốc, rùng rợn của hàng triệu dân quê…".
Mô tả thực tế cảnh nghèo, ông đặt câu hỏi: “Vì đâu dân quê nghèo?” và “Làm thế nào cho dân quê khỏi nghèo?”. Từ đó, Nghiêm Xuân Yêm đề xuất việc chấn hưng nền nông nghiệp. Ông đặc biệt quan tâm đến vấn đề người nông dân không có ruộng và ít ruộng, vấn đề chống độc canh cây lúa, vấn đề đưa chăn nuôi thành ngành đi đôi với trồng trọt, việc lai giống, việc dẫn thủy nông nhập điền...
Từ đó, Chủ nhiệm báo Vũ Đình Hòe vui mừng: “Anh Nghiêm Xuân Yêm mặc nhiên trở thành một biên tập viên chủ chốt của Báo Thanh Nghị phụ trách mục nông nghiệp và nông thôn”.
Đầu năm 1947, Kỹ sư Nghiêm Xuân Yêm được bổ nhiệm làm Thứ trưởng Bộ Canh nông. Tuy làm Thứ trưởng nhưng thực tế ông giữ vai trò Bộ trưởng điều hành công việc của Bộ Canh nông vì khi đó Bộ trưởng Ngô Tấn Nhơn được cử làm Đặc phái viên của Chính phủ vào Nam bộ.
Vừa đẩy mạnh phát triển chính sách nông nghiệp ông vừa lưu ý đến công tác tuyên truyền, đặc biệt là báo chí. Vì vậy, những tờ báo được Bộ Canh nông quan tâm phát triển để đưa kiến thức nông nghiệp đến với nông dân như Tập san Canh nông, Báo Toàn dân Canh tác… đều đặn phát hành bất chấp các trận càn quét của thực dân Pháp.
Tháng 2/1955, Bộ Canh nông được đổi tên thành Bộ Nông lâm. Kế thừa và phát huy Báo Toàn dân Canh tác và Tập san Canh nông, Tập san Nông lâm, Tạp chí Nông lâm lần lượt ra đời để thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền. Sau đó được đổi tên thành Báo Nông nghiệp - Cơ quan hướng dẫn sản xuất nông lâm ngư nghiệp của Bộ Nông lâm và Báo Nông lâm - Cơ quan phổ biến kỹ thuật của Bộ Nông lâm. Chủ nhiệm báo là Bộ trưởng Bộ Nông lâm: ông Nghiêm Xuân Yêm.
Nhà báo Nguyễn Thanh Dương, nguyên Tổng Biên tập Báo Tiền phong, kể lại trong hồi ký “Một thời nhớ mãi”: Những năm 1960, giữa lúc phong trào thanh niên làm phân bón đang sôi nổi, Bí thư Trung ương đoàn kiêm Tổng Biên tập Báo Tiền phong lúc đó là ông Lê Xuân Đồng gợi ý ông Dương đến gặp một vị Bộ trưởng vì nghe nói Bộ trưởng có nhiều ý kiến rất hay về phong trào.
Suốt một giờ liền, Bộ trưởng thuyết minh về cái “thế giới khoa học” của phân bón. Nhà báo Nguyễn Thanh Dương càng nghe càng thấy rối rắm mông lung, càng không hiểu Bộ trưởng đó muốn nói điều gì. Cuối cùng, ông xin phép cáo lui rồi kể lại nội dung cuộc gặp cho ông Lê Xuân Đồng nghe với sự tiếc nuối “không thể viết được gì”.
Nhà báo Nguyễn Thanh Dương đã cử nhà báo Đỗ Văn Thoan là Trưởng ban Nông nghiệp của Báo Tiền phong đến gặp Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp Nghiêm Xuân Yêm, một chuyên gia giỏi, để nhờ ông viết cho một bài về thanh niên làm phân bón như thế nào.
Nhà quản lý, nhà khoa học Nghiêm Xuân Yêm đã không làm cho tờ báo của Trung ương Đoàn phải thất vọng. “Ngay hôm sau, chúng tôi đã có một bài rất tốt có cơ sở khoa học về vấn đề này”, nguyên Tổng biên tập Nguyễn Thanh Dương đã kể lại.
Từ bệ phóng Báo Nông nghiệp
Tròn 10 năm về trước, người viết bài này có dịp hỏi chuyện nhà văn Nguyễn Sinh. Ông là phóng viên Báo Nông nghiệp năm 1960. Xúc động khi ông lại kỷ niệm về cơ quan cũ, ông nói: “Sau này, tôi là phóng viên Báo Nhân dân, rồi Tổng biên tập Nhà xuất bản Phụ nữ. Tính từ đó đến nay, tôi đã cầm bút hơn 60 năm nên không thể quên Báo Nông nghiệp - bệ phóng của tôi”.
Từ lời kể của nhà văn Nguyễn Sinh, chúng tôi lần giở lại trang sử Nông nghiệp. Cuối năm 1960, Bộ Nông lâm tách thành Bộ Nông nghiệp, Bộ Nông trường, Tổng cục Thủy sản và Tổng cục Lâm nghiệp. Báo Nông lâm (của Bộ Nông lâm cũ) và một số tờ báo khác về nông nghiệp như Tập san Nông thôn (cơ quan của Ban Công tác nông thôn Trung ương Đảng), Báo Nhân dân Nông thôn (cơ quan của Trung ương Đảng) được nhập vào Báo Nông nghiệp - Cơ quan của Bộ Nông nghiệp. Chủ nhiệm là ông Phan Văn Chiêu, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp.
Ông sinh trong một gia đình trung nông tại ấp Cái Triết, làng Thiện Hòa, quận - nay là huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng. Là cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc, tháng 5/1960, ông Phan Văn Chiêu được đề bạt làm Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp, đồng thời ông còn trúng cử Đại biểu Quốc hội khóa II và khóa III. Dưới thời ông làm Chủ nhiệm, Báo Nông nghiệp thời kỳ này xuất bản 4 kỳ/tháng. Khuôn khổ 42x52. In tại nhà in Báo Nhân dân. Phát hành 20.000 bản/kỳ. Trụ sở đặt tại Vườn Bách Thảo, Hà Nội.
Nhà văn Nguyễn Sinh kể lại: “Khi Báo Nông nghiệp ra đời, tôi được gọi sang làm báo. Chủ nhiệm báo là ông Phan Văn Chiêu, cán bộ miền Nam tập kết, nhà cách mạng lão thành. Theo tôi biết, hiện nay ở TP. Hồ Chí Minh có một đường phố mang tên ông. Trực tiếp phụ trách tờ báo là ông Minh (tôi không nhớ họ), vốn là cán bộ Nông vận của Đảng. Lúc đó không gọi là Tổng biên tập”.
Thời ấy, không gọi là phóng viên, cũng không có thẻ nhà báo. Trong ký ức của ông Nguyễn Sinh, mỗi khi đi viết bài nơi nào, có giấy giới thiệu của cơ quan về nơi đó.
Đội ngũ viết báo cũng không nhiều. “Người viết rất ít - ông Nguyễn Sinh kể tiếp - ngoài tôi, có anh Nguyễn Thanh Sân, cán bộ miền Nam tập kết. Về sau anh cũng về Báo Nhân dân với tôi. Nay anh đã qua đời ở thành phố Đà Nẵng. Anh Nguyễn Xuân Khang, học khoa Trồng trọt của trường Trung cấp Nông lâm. Về sau, anh chuyển sang phụ trách phần Nông nghiệp của Báo Hà Nội mới. Anh Xuân Khang qua đời giữa năm 2014. Anh Chu Hồng Đức, con trai nhà văn Học Phi; anh mất sớm. Anh Nguyễn Văn Đồng. Và một người nữa, anh Sơn Tùng, về sau chuyển sang Báo Tiền phong của Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh”. Nhà văn, Anh hùng Lao động Sơn Tùng đã qua đời năm 2021.
Thời gian đã quá lâu để ôn lại kỷ niệm thời làm Báo Nông nghiệp. Song với ông Nguyễn Sinh, “điều để lại ấn tượng rất lâu trong tôi là không khí làm việc và cách sống hồn nhiên, không khí đoàn kết, thân ái trong cơ quan”. Đây cũng chính là niềm tự hào của nhiều thế hệ và phóng viên, biên tập viên, cán bộ - công nhân viên Báo Nông nghiệp và Môi trường hôm nay tiếp tục gìn giữ và bồi đắp.