Ba thập kỷ gắn bó với con gà
Từ năm 1990, giữa thôn Đồn Cầu Bằng, thuộc xã Kép, tỉnh Bắc Ninh mới (trước đây là xã Hương Sơn, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang), anh Dương Văn Thân đã bắt đầu gắn bó cả đời mình với nghề nuôi gà.
Khi ấy, chăn nuôi còn tự phát, chuồng trại đơn sơ, thức ăn tận dụng, thuốc thú y mua theo kinh nghiệm. Những trận dịch liên tiếp đã nhiều lần cuốn sạch vốn liếng, có khi anh tay trắng. Thế nhưng, anh Thân không bỏ nghề.“Sống chết với con gà rồi, có duyên nên dù nhiều lần mất hết, tôi vẫn quay lại. Chính những thất bại cho mình thêm kinh nghiệm để đứng vững”, anh Thân nhớ lại.

3.000 con gà tối xuất bán cho thương lái. Ảnh: Phạm Minh.
Sự thay đổi lớn đến khi anh hợp tác lâu dài với một công ty thú y uy tín. Cứ mỗi khi nhập đàn mới, kỹ sư của công ty lại về tận nơi lấy mẫu máu gà, phân gà, đất và nước để xét nghiệm, từ đó cấp loại vaccine, thuốc khử khuẩn phù hợp. Nhờ vậy, đàn gà khỏe mạnh, ít dịch bệnh, tỷ lệ hao hụt giảm đáng kể. “Ngày trước, chỉ cần một đợt dịch là coi như trắng tay. Giờ thì khác, có sự đồng hành của kỹ thuật, tôi yên tâm nuôi”, anh Thân nói.
Hiện, trang trại của anh duy trì thường xuyên 15.000 con gà, chia làm 10 chuồng, mỗi chuồng 1.500-2.000 con. Anh sắp xếp nuôi 5 chuồng trước, 5 chuồng sau, các đàn cách nhau 10-15 ngày, nên lúc nào trong trại cũng có gà ở nhiều lứa tuổi khác nhau. Quy mô chuồng có thể chứa 30.000-40.000 con, nhưng anh chọn mức 15.000 con để dễ quản lý, tránh rủi ro. Giống chủ lực là gà lai chọi, thời gian nuôi trung bình 3 tháng 20 ngày, trọng lượng xuất chuồng đạt 2,3-2,7kg/con. Mỗi lứa xuất 15.000 con, trừ chi phí giống, cám, thuốc thú y, anh lãi 250-300 triệu đồng.
Chiều dần buông nắng, chị Vân,vợ anh Thân vừa kéo bao cám vừa trò chuyện: “Nuôi gà vất vả lắm, nhưng giờ cũng đỡ hơn nhiều. Chuồng tối này chuẩn bị xuất 3.000 con, thương lái đặt sẵn rồi”. Chị dẫn chúng tôi lên khu chuồng gà, vừa cười nói vừa kiểm tra máng ăn, ống nước. Tiếng gà kêu rộn ràng, mùi cám mới, không khí nóng hổi của lao động khiến câu chuyện thêm sinh động. Đó cũng chính là minh chứng rõ ràng nhất cho thành quả của một gia đình gắn bó với nghề suốt hơn 30 năm.
Theo anh Thân, thành công trong nghề này không chỉ ở kỹ thuật mà còn ở kỷ luật và sự kiên nhẫn. Ngày nào anh cũng ghi nhật ký: đàn gà ăn bao nhiêu, tốc độ lớn thế nào, tiêm vaccine ra sao. “Nếu kiên trì, tuân thủ kỹ thuật và tính toán đúng thời điểm nhập - xuất, có thể sống tốt với nghề này”, anh chia sẻ.

Gia đình ông Đồng có khoảng 10.000-20.000 con, trong đó thường có 5.000 con ở lứa nhỏ và 10.000 con chuẩn bị xuất bán. Ảnh: Phạm Minh.
Hợp tác xã, điểm tựa mới của người chăn nuôi
Năm 2021, Hợp tác xã (HTX) Gà núi Hương Sơn được thành lập với 11 xã viên, trong đó anh Thân là một trong những thành viên đầu tiên. Giám đốc HTX là ông Trần Văn Đồng, cũng là hộ nuôi gà lâu năm. “Trước đây các hộ mạnh ai nấy làm, đầu ra bấp bênh. Có HTX, chúng tôi được tập huấn kỹ thuật, tổ chức tiêm phòng đồng loạt, hiệu quả cao hơn, dịch bệnh gần như không còn”, ông Đồng chia sẻ.
HTX hiện duy trì tổng đàn khoảng 50.000 con gà mỗi lứa, chủ yếu ở thôn Đồn Cầu Bằng. Riêng gia đình ông Đồng có khoảng 10.000-20.000 con, trong đó thường có 5.000 con ở lứa nhỏ và 10.000 con chuẩn bị xuất bán. Trọng lượng trung bình 2,2-2,5kg/con, giá bán bình quân 65.000-85.000 đồng/kg. Mỗi lứa, sau khi trừ chi phí, ông lãi khoảng 200 triệu đồng.
Ông Đồng thẳng thắn: “Khó khăn lớn nhất bây giờ không phải dịch bệnh mà là giá cả. Chăn nuôi đều phụ thuộc thị trường, khi cao khi thấp. Người nuôi giờ sợ nhất không bán được gà”. Hiện phần lớn gà của HTX vẫn bán qua thương lái. Ông mong muốn HTX trở thành đầu mối đưa gà vào siêu thị, tạo kênh tiêu thụ ổn định.

Ông Trần Văn Đồng, Hợp tác xã Gà núi Hương Sơn cho đàn gà gần 1 tháng tuổi ăn. Ảnh: Phạm Minh.
Trong những năm đầu, Hội Nông dân tỉnh Bắc Giang cũ từng xây dựng đề án hỗ trợ hệ thống cho gà ăn tự động, nhưng chỉ hỗ trợ phần mềm điều khiển, phần máng và lắp đặt các hộ phải tự lo, chi phí cao nên chưa được triển khai. “Nếu được Nhà nước hỗ trợ 100% chúng tôi sẽ giảm được nhân công, tránh lãng phí thức ăn do vương vãi, lợi nhuận cũng sẽ tăng”, ông Đồng nói.
Một bất cập lớn khác là quy định xây dựng nhà máy chế biến, kho lạnh phải trên đất sổ đỏ, trong khi HTX không có tư cách pháp lý sở hữu đất. Vì vậy, một số hộ như anh Tuấn phải tận dụng đất gia đình để xin hỗ trợ máy chế biến, làm sản phẩm OCOP. HTX chỉ đứng tên ký kết, đóng dấu, còn quyền lợi kinh tế thuộc về cá nhân. Điều này khiến giấc mơ xây dựng chuỗi giá trị chung vẫn chưa thành hiện thực.
Dù vậy, HTX vẫn mang lại nhiều thay đổi tích cực. Các xã viên được tổ chức tập huấn kỹ thuật, ứng dụng chế phẩm sinh học thay hóa chất, vệ sinh, khử khuẩn chuồng trại. Các kỹ sư thú y thường xuyên kiểm tra, hướng dẫn cách chăm sóc, điều trị. Nhờ đó, dịch bệnh gần như không xuất hiện.
Ông Đồng khẳng định: “Có HTX, bà con nuôi gà yên tâm hơn, bài bản hơn. Bây giờ chỉ cần giải quyết khâu đầu ra và chế biến nữa là sẽ vững chắc”.

Từ trang trại gà trên đồi nhìn xuống, căn nhà khang trang của vợ chồng anh chị Thân Vân nổi bật giữa núi rừng. Ảnh: Phạm Minh.
Kỳ vọng một thương hiệu gà núi
Hiện nay, gà núi Hương Sơn đã trở thành sản phẩm quen thuộc với thương lái ở Bắc Ninh, Hà Nội, Hải Dương. Mỗi lứa xuất chuồng, các chủ buôn tìm đến tận nơi, đặt mua cả đàn. Tuy nhiên, việc phụ thuộc vào thương lái khiến người chăn nuôi vẫn thấp thỏm. “Mong nhất là có chuỗi tiêu thụ ổn định, không còn cảnh được, mất theo thương lái”, ông Đồng nói.
Nhờ sự đồng hành của HTX, các hộ không chỉ có kiến thức mà còn tự tin hơn. Anh Thân nhấn mạnh: “Điều quý nhất là mỗi lứa gà đều được công ty thú y lấy mẫu, cấp thuốc và vaccine phù hợp. Đàn gà khỏe mạnh, chất lượng thịt cũng ngon hơn, bán được giá hơn”.
Thành công đã hiện hữu. Năm 2022, vợ chồng anh Thân xây được ngôi nhà khang trang sau nhiều năm gắn bó với con gà. Ông Đồng với diện tích 3ha đồi cũng khẳng định gà là nguồn thu nhập chính, nuôi con cháu ăn học.
Trong định hướng, xã Kép đã xác định gà núi Hương Sơn sẽ là sản phẩm OCOP chủ lực. Đây là bước đi tất yếu để nông sản địa phương không chỉ dừng ở bán tươi mà còn tham gia chuỗi giá trị, có chỗ đứng ở thị trường lớn.
Ông Đồng kỳ vọng: “Nếu được hỗ trợ hệ thống chế biến, kho lạnh, kết nối siêu thị, gà Hương Sơn sẽ thành thương hiệu OCOP thực sự. Khi đó, sản phẩm này có thể sánh cùng vải thiều Lục Ngạn, gà đồi Yên Thế, mỳ Chũ, rượu Làng Vân, những đặc sản đã vang danh”.