Những đổi thay này giúp tiết kiệm chi phí, giảm sức lao động và nâng cao thu nhập cho xã viên, đặc biệt với các cây trồng chủ lực như cà rốt.
Xã viên Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Đức Chính thu hoạch rau trên cánh đồng Tuệ Tĩnh. Ảnh: Lan Chi.
Tưới nước, bón phân chỉ bằng… một nút bấm
Theo ông Nguyễn Đức Thuật, Giám đốc Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Đức Chính, vùng đất này đã gắn bó với cây cà rốt gần 40 năm. Nhờ phù hợp thổ nhưỡng và được doanh nghiệp hỗ trợ bao tiêu, cà rốt từng là “cây làm giàu” cho nông dân Đức Chính, rồi lan ra nhiều địa phương khác khi bà con đi thuê đất sản xuất ở Bắc Ninh, Thái Bình, Nghệ An, Thanh Hóa, Vĩnh Phúc…
Tuy vậy, sau nhiều năm canh tác liên tục, đất bạc màu dần, biến đổi khí hậu, dịch bệnh phức tạp, chi phí phân bón và nhân công tăng cao, buộc hợp tác xã phải tính đến chuyện đa dạng cây trồng và ứng dụng công nghệ để giữ hiệu quả kinh tế.
“Đứng trước những thách thức mới, nếu chỉ làm theo cách cũ thì rất khó giữ được thu nhập cho bà con. Đức Chính buộc phải thay đổi, từ cơ cấu cây trồng đến cách làm, trong đó công nghệ và chuyển đổi số là hướng đi tất yếu”, ông Thuật chia sẻ.
Một trong những ứng dụng công nghệ rõ nét nhất là hệ thống tưới điều khiển từ xa trên các vùng trồng màu. Thay vì phải ra tận ruộng mở van, kéo ống, trông chừng từng luống, nhiều hộ xã viên nay chỉ cần bấm nút điều khiển, hoặc cài đặt chế độ tưới tự động.
“Có những khu ruộng cách nhà vài cây số, trước đây bà con phải dậy từ mờ sáng ra ruộng bơm nước. Bây giờ, chỉ cần bật thiết bị điều khiển là hệ thống phun sương, thẩm thấu hoạt động, vừa tiết kiệm nước, vừa tiết kiệm thời gian và công lao động”, ông Thuật cho biết.
Thiết bị tưới thông minh còn cho phép pha phân, thuốc dinh dưỡng vào nước tưới, giúp cây được “ăn” đều hơn, giảm thất thoát, hạn chế lãng phí. Với những cây màu đòi hỏi độ ẩm ổn định như cà rốt hay ngô ngọt…, công nghệ tưới tự động giúp hạn chế tình trạng úng - hạn cục bộ, từ đó nâng cao năng suất và chất lượng.
Ông Nguyễn Đức Thuật, Giám đốc Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Đức Chính hướng dẫn xã viên thao tác đóng gói và hỗ trợ bà con trong buổi thu hoạch rau trên đồng. Ảnh: Lan Chi.
Hiện nay, theo ông Thuật, hệ thống tưới điều khiển từ xa đã trở thành “chuyện phổ biến” ở Đức Chính, không còn là thứ gì quá xa lạ. Nông dân lớn tuổi có thể dùng điều khiển riêng, người trẻ thì kết nối qua điện thoại, cài đặt giờ tưới, thời gian tưới theo nhu cầu từng ruộng.
Đáng chú ý, tại xã Tuệ Tĩnh, lực lượng xã viên lớn tuổi vẫn chiếm tỷ lệ cao. Để mọi người "không bị bỏ lại phía sau", chính quyền và Hợp tác xã thường xuyên tổ chức tập huấn, hội thảo, “cầm tay chỉ việc” ngay tại ruộng.
“Ban đầu nhiều bác, nhiều cô sợ công nghệ, nhưng khi được hướng dẫn từng bước, lại thấy hàng xóm sử dụng nước hiệu quả, tiết kiệm, đỡ vất vả thì dần dần ai cũng quen”, ông Thuật chia sẻ.
Bà Nguyễn Thị Bích, thôn Địch Tràng, xã Tuệ Tĩnh cho biết gia đình bà gắn bó với cây cà rốt nhiều năm và gần đây bắt đầu trồng thêm ớt cũng như một số loại rau màu theo hướng dẫn kỹ thuật từ Hợp tác xã. Việc áp dụng công nghệ, đặc biệt là hệ thống tưới điều khiển từ xa và các quy trình canh tác được hướng dẫn qua tập huấn, giúp bà con dễ dàng hơn trong chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh.
Những mùa vụ đổi thay nhờ công nghệ và chuyển đổi số
Nhờ ứng dụng công nghệ tưới, cơ giới hóa và tăng cường kết nối số, chi phí sản xuất của bà con đã giảm đáng kể, nhất là chi phí nhân công và nước tưới.
Với cây ớt xuất khẩu, mô hình mới được thử nghiệm khoảng 4 năm gần đây và đang được bà con triển khai chính thức trên cánh đồng, bước đầu cho thu nhập khoảng 13-15 triệu đồng/sào mỗi vụ, có năm giá tốt còn cao hơn, thậm chí có khả năng vượt cà rốt. Tuy vậy, tâm lý nông dân vẫn thận trọng, do vậy Hợp tác xã phải làm dần dần, có mô hình hiệu quả rồi mới nhân rộng, tránh rủi ro cho bà con.
“Chuyển đổi số trong nông nghiệp ở xã Tuệ Tĩnh chưa phải điều gì to tát, nhưng mỗi thiết bị tưới điều khiển từ xa, mỗi nhóm Zalo kỹ thuật, mỗi cuốn nhật ký đồng ruộng đều là bước nhỏ giúp nông dân làm chủ hơn quy trình sản xuất, giảm bớt phụ thuộc vào thời tiết và thói quen cũ”, ông Thuật chia sẻ.
Mô hình trồng ớt xuất khẩu được thử nghiệm khoảng 4 năm gần đây và đang được bà con triển khai chính thức trên cánh đồng Đức Chính, bước đầu cho thu nhập khoảng 13-15 triệu đồng/sào mỗi vụ. Ảnh: Xuân Phương.
Thời gian tới, Hợp tác xã Dịch vụ nông nghiệp Đức Chính đặt mục tiêu tiếp tục mở rộng ứng dụng công nghệ trong tưới tiêu, chăm bón, giám sát dịch hại; tăng cường liên kết với các viện, trường, doanh nghiệp trong và ngoài nước để xây dựng chuỗi giá trị nông sản an toàn, có truy xuất nguồn gốc, hướng đến thị trường xuất khẩu.
“Hợp tác xã mong muốn mỗi tiến bộ kỹ thuật, mỗi bước chuyển đổi số đều trở thành thu nhập cụ thể cho người dân, giúp bà con yên tâm gắn bó với ruộng đồng, làm nông nghiệp nhưng vẫn có cuộc sống ổn định, vươn lên khá giả”, ông Nguyễn Đức Thuật khẳng định.


























