| Hotline: 0983.970.780

Hiến kế phát triển bền vững cây ăn quả Sơn La

Thứ Hai 19/05/2025 , 04:28 (GMT+7)

Sau 10 năm đưa cây ăn quả lên dất dốc, Sơn La đã chuyển mình ấn tượng, vươn lên thành vùng cây ăn quả lớn nhất miền Bắc.

Ngày 16/5, Tỉnh ủy Sơn La tổ chức hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện chủ trương của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Sơn La về đưa cây ăn quả lên đất dốc  rõ 

Hội nghị đã ghi nhận nhiều ý kiến quý báu từ các nhà quản lý, nhà khoa học, các địa phương, doanh nghiệp, HTX trên địa bàn tỉnh Sơn La về những tồn tại, hạn chế và đề xuất những định hướng để phát triển bền vững cây ăn quả trong giai đoạn tiếp theo.

Ông Hoàng Quốc Khánh, Bí thư Tỉnh ủy Sơn La:

Quy hoạch đồng bộ để phát triển bền vững và hội nhập

Chủ trương phát triển cây ăn quả trên đất dốc đã được các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong tỉnh triển khai với quyết tâm cao. Nhờ huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị và nhân dân, chủ trương nhanh chóng được hiện thực hóa bằng những việc làm cụ thể, thiết thực, góp phần tạo chuyển biến rõ nét trong cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp. Hàng chục nghìn ha đất dốc kém hiệu quả đã được chuyển đổi sang trồng cây ăn quả có giá trị kinh tế cao, phù hợp với nhu cầu thị trường.

Ông Hoàng Quốc Khánh, Bí thư Tỉnh ủy Sơn La. Ảnh: Nguyễn Nga.

Ông Hoàng Quốc Khánh, Bí thư Tỉnh ủy Sơn La. Ảnh: Nguyễn Nga.

Sơn La cũng chú trọng đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất, thu hút các tập đoàn, doanh nghiệp lớn có kinh nghiệm đầu tư vào trồng trọt, chế biến nông sản. Từng bước hình thành các vùng nguyên liệu gắn với nhà máy chế biến, khuyến khích mô hình tổ chức sản xuất hiện đại theo chuỗi giá trị, thắt chặt mối liên kết giữa doanh nghiệp - HTX - người dân, thúc đẩy xuất khẩu trái cây an toàn, nâng cao hiệu quả kinh tế hộ, cấp mã số vùng trồng, phát triển sản phẩm OCOP từ cây ăn quả…

Hiện nay, Sơn La là tỉnh có diện tích cây ăn quả lớn nhất miền Bắc với tổng diện tích cây ăn quả và sơn tra ước đạt trên 85.000ha, sản lượng năm 2025 dự kiến đạt 510.000 tấn. Giai đoạn 2016 - 2025, toàn tỉnh đã chuyển đổi và trồng mới gần 62.000ha cây ăn quả, giá trị sản xuất bình quân đạt từ 150 - 300 triệu đồng/ha/năm.

Để ngành cây ăn quả phát triển ổn định, bền vững, nâng cao giá trị gia tăng, tỉnh xác định mục tiêu chuyển từ xây dựng chuỗi cung ứng sang phát triển chuỗi quả giá trị ngành hàng. Các tác nhân trong chuỗi được gắn kết chặt chẽ theo nguyên tắc minh bạch, trách nhiệm và chia sẻ lợi ích theo mức độ đóng góp. Mô hình liên kết “6 nhà” (nhà nông - nhà nước - nhà doanh nghiệp - ngân hàng - nhà khoa học - nhà phân phối) tiếp tục được củng cố, trong đó nòng cốt là liên kết nhà nông - doanh nghiệp.

Xây dựng, phát triển hiệu quả các vùng nguyên liệu tập trung, đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ (KHCN), chuyển đổi số, cơ giới hóa đồng bộ, nâng cao năng lực chế biến và bảo quản theo mô hình liên kết sản xuất gắn với tiêu chuẩn chất lượng vùng nguyên liệu. Đồng thời nghiên cứu, ban hành chính sách khuyến khích chọn tạo, khảo nghiệm, phục tráng giống, chuyển đổi cơ cấu giống phù hợp với từng vùng sinh thái.

Bên cạnh đó, Sơn La ưu tiên phát triển công nghiệp chế biến các loại quả có lợi thế cạnh tranh, đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu, từng bước hình thành các khu, cụm công nghiệp và dịch vụ hỗ trợ như kho, bến, bãi, nhà máy chế biến, trạm, trại giống… tạo sự kết nối đồng bộ giữa vùng sản xuất với công nghiệp chế biến, logistics và thị trường tiêu thụ.

Ông Nguyễn Xuân Cường, nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn:

Quyết sách đúng thời điểm, phù hợp thực tiễn

Trên hành trình từ Hòa Bình đến Sơn La, ấn tượng sâu sắc nhất với tôi chính là những mảng xanh trù phú trải dài hai bên đường, một hình ảnh sinh động, đầy sức sống của các vùng cây ăn quả đang vào mùa, đặc biệt là xoài và nhãn. Đó không chỉ là màu xanh của cây trái, mà là màu xanh của sự đổi thay, của một chiến lược nông nghiệp bài bản đang phát huy hiệu quả. Có thể khẳng định, chủ trương của cấp ủy Sơn La về phát triển cây ăn quả trên đất dốc là một quyết sách đúng thời điểm, trúng, căn cơ, phù hợp thực tiễn, thể hiện rõ bản lĩnh lãnh đạo và tư duy phát triển bền vững.

Ông Nguyễn Xuân Cường, nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Ảnh: Quang Linh.

Ông Nguyễn Xuân Cường, nguyên Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Ảnh: Quang Linh.

Điểm nổi bật là Sơn La đã lựa chọn giải pháp then chốt: Tập trung cải tạo và phát triển các giống cây bản địa, kết hợp hài hòa yếu tố địa phương, yếu tố quốc gia và xu thế thời đại, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển.

Chính cách tiếp cận bài bản, sáng tạo này đã giúp Sơn La từ một tỉnh miền núi với nhiều khó khăn trong canh tác, chỉ sau 10 năm đã đạt được bước tiến ngoạn mục, thay đổi toàn diện hạ tầng nông nghiệp và bộ mặt nông thôn vùng cao, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc toàn tỉnh. Thành tựu này không chỉ là bước tiến của riêng Sơn La mà còn tạo hiệu ứng lan tỏa tích cực đến nhiều vùng miền khác trên cả nước.

Để tiếp tục phát triển nông nghiệp hiệu quả và bền vững, Sơn La cần chú trọng đẩy mạnh ứng dụng KHCN, triển khai hiệu quả Nghị quyết số 57-NQ/TW về phát triển KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. KHCN cần được đưa vào xuyên suốt toàn bộ chuỗi giá trị, từ giống, kỹ thuật trồng trọt đến thu hoạch, chế biến, bảo quản và thương mại. Đồng thời, cần thúc đẩy cơ giới hóa nông nghiệp sâu rộng trong từng công đoạn như làm đất, canh tác, chăm sóc, bón phân, thu hái... nhằm nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí và tăng hiệu quả sản xuất.

Đặc biệt, Sơn La cần quan tâm phát triển đàn bò thịt chất lượng cao, vừa tạo sinh kế bền vững cho người chăn nuôi, vừa tận dụng hiệu quả nguồn phân hữu cơ phục vụ trồng cây ăn quả, góp phần cải tạo đất, giảm chi phí đầu vào, thúc đẩy nền nông nghiệp xanh, kinh tế tuần hoàn, nông nghiệp bền vững.

TS Nguyễn Văn Dũng, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Rau quả:

Khoa học là nền tảng vững chắc

Sơn La có nhiều lợi thế để phát triển các loại cây ăn quả đặc sản nhờ sự đa dạng về tiểu vùng sinh thái, khí hậu phân hóa rõ rệt và nguồn gen bản địa quý hiếm hoặc được trồng từ rất lâu như chuối tây, xoài tròn Yên Châu, nhãn Sông Mã, mận tam hoa Mộc Châu… Đây là cơ sở quan trọng để xây dựng vùng trồng gắn với bản sắc vùng miền và giá trị kinh tế cao.

TS Nguyễn Văn Dũng, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Rau quả. Ảnh: Đức Bình.

TS Nguyễn Văn Dũng, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Rau quả. Ảnh: Đức Bình.

Trong 10 năm qua, Viện Nghiên cứu Rau quả đã phối hợp chặt chẽ với Sơn La trong công tác nghiên cứu, chọn tạo và chuyển giao các giống cây ăn quả mới có năng suất, chất lượng cao, phù hợp với điều kiện địa phương. Nhiều giống đã được đưa vào sản xuất đại trà như nhãn T6, nhãn Ánh Vàng 205, na Hoàng Hậu, xoài GL4, chuối tiêu hồng, thanh long ruột đỏ TL4, chanh leo Hoàng Kim 151... Các giống này không chỉ giúp rải vụ thu hoạch mà còn từng bước nâng cao giá trị xuất khẩu, tăng thu nhập cho người trồng.

Về kỹ thuật canh tác, Viện đã xây dựng, chuyển giao nhiều quy trình kỹ thuật tiên tiến như ghép cải tạo thay thế giống nhãn, xoài; thâm canh, rải vụ thu hoạch nhãn; thâm canh, xử lý ra hoa rải vụ thu hoạch xoài, na, thanh long ruột đỏ… giúp nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, kéo dài thời vụ, phù hợp với yêu cầu thị trường.

Tuy nhiên, để phát triển cây ăn quả theo hướng hàng hóa bền vững, Sơn La cần phát triển vùng sản xuất tập trung theo nhóm cây trồng chủ lực của từng địa bàn. Đồng thời, nâng cao hiệu quả khai thác mã số vùng trồng để đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của thị trường tiêu thụ. Chú trọng nâng cao năng lực cho các đơn vị sản xuất giống cây ăn quả trên địa bàn tỉnh nhằm tạo nguồn cây giống chất lượng cao, sạch bệnh, chủ động phục vụ việc mở rộng diện tích trồng mới và thay thế diện tích cây già cỗi, năng suất thấp.

Bên cạnh đó, đẩy mạnh ứng dụng chuyển đổi số trong sản xuất, bao gồm từ thâm canh, quản lý mã số vùng trồng, giám sát sản xuất theo các tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP đến khâu vận chuyển, tiêu thụ sản phẩm và thương mại điện tử. Tăng cường liên kết sản xuất - tiêu thụ, xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa nông dân với doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu trên địa bàn tỉnh. Việc hình thành các chuỗi liên kết bền vững sẽ giúp bao tiêu, kiểm soát chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước thông qua xúc tiến thương mại và các nền tảng thương mại điện tử.

Ông Nguyễn Mạnh Hùng, Bí thư Huyện ủy Sông Mã:

Từ huyện vùng biên thành vùng sản xuất trọng điểm

Sau 10 năm thực hiện chủ trương đưa cây ăn quả lên đất dốc, huyện Sông Mã đã có bước chuyển đầy ấn tượng. Diện tích cây ăn quả toàn huyện tăng từ 3.472ha năm 2015 lên 11.210ha vào năm 2025, sản lượng ước đạt hơn 107.000 tấn. Trong đó, hơn 8.300ha đất trồng cây lương thực kém hiệu quả đã được chuyển đổi sang các loại cây ăn quả có giá trị kinh tế cao như xoài, bưởi da xanh, nhãn ghép, nhãn trái vụ, mận, sơn tra…

Ông Nguyễn Mạnh Hùng, Bí thư Huyện ủy Sông Mã. Ảnh: Mạnh Hùng.

Ông Nguyễn Mạnh Hùng, Bí thư Huyện ủy Sông Mã. Ảnh: Mạnh Hùng.

Sông Mã cũng là một trong những địa phương đi đầu hướng dẫn nhân dân sản xuất cây ăn quả trái vụ, rải vụ với khoảng 1.420 nhãn chín sớm, sản lượng gần 20.000 tấn, mang lại giá trị kinh tế cao gấp 1,5 - 2 lần so với chính vụ.

Cùng với mở rộng sản xuất, huyện chú trọng tổ chức lại mô hình sản xuất nông nghiệp. Từ 9 HTX năm 2015, đến nay, Sông Mã đã phát triển lên 75 HTX và một doanh nghiệp nông nghiệp, phần lớn sản xuất cây ăn quả an toàn theo quy trình VietGAP. Huyện đã được cấp 50 mã số vùng trồng với diện tích trên 1.700ha, sản lượng trên 12.000 tấn, nhiều sản phẩm xuất khẩu đến các thị trường như Trung Quốc, Mỹ, Úc, New Zealand.

Thương hiệu “Nhãn Sông Mã” ngày càng được khẳng định trên bản đồ nông sản nhờ hệ thống hơn 3.200 lò sấy, 2 làng nghề chế biến long nhãn và các sự kiện xúc tiến thương mại như Ngày hội nhãn Sông Mã được tổ chức hàng năm.

Tuy nhiên, địa hình chia cắt, giao thông đến vùng sản xuất vẫn là thách thức, đặc biệt vào mùa mưa. Hệ thống thủy lợi còn hạn chế, kỹ thuật rải vụ chủ yếu dựa vào kinh nghiệm dân gian, chưa có quy trình chuẩn. Trong khi đó, sản xuất trái vụ đòi hỏi nguồn lực lớn và trình độ kỹ thuật cao.

Hướng tới năm 2035, Sông Mã đặt mục tiêu mở rộng vùng cây ăn quả lên 14.000ha, trong đó riêng nhãn trái vụ khoảng 5.000ha, tập trung tại các xã có điều kiện phù hợp. Để hiện thực hóa mục tiêu, huyện Sông Mã sẽ đẩy mạnh chuyển giao quy trình sản xuất cây ăn quả rải vụ, trái vụ; khuyến khích dồn điền, đổi thửa, tích tụ ruộng đất, hình thành vùng chuyên canh lớn, tăng cường liên kết chuỗi từ sản xuất đến tiêu thụ. Đồng thời, kiến nghị tỉnh ban hành quy trình kỹ thuật rải vụ chuẩn cho các loại cây chủ lực và đầu tư hạ tầng giao thông, thủy lợi phục vụ phát triển nông nghiệp hàng hóa bền vững trên đất dốc.

Ông Đinh Cao Khuê, Chủ tịch HĐQT, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao:

Liên kết sản xuất là chìa khóa cho chế biến sâu và xuất khẩu

Sơn La có diện tích và sản lượng cây ăn quả tăng nhanh, đây là điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu. Nhằm liên kết phát triển vùng nguyên liệu, Công ty cổ phần Thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao (DOVECO) đã tập trung đầu tư công nghệ sản xuất, đa dạng hóa sản phẩm đầu ra. Hiện nay, doanh nghiệp đang chuẩn bị ra mắt dây chuyền đóng hộp giấy Tetra Recart hiện đại đầu tiên tại Việt Nam vào ngày 2/7 tới tại DOVECO Sơn La, sử dụng công nghệ Ý, công suất 6.000 hộp/giờ. Khi đi vào vận hành, sẽ giúp DOVECO Sơn La trở thành nhà máy có dây chuyền hiện đại nhất trong 3 nhà máy của DOVECO.

TS Đinh Cao Khuê, Chủ tịch HĐQT, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao. Ảnh: Đức Bình.

TS Đinh Cao Khuê, Chủ tịch HĐQT, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần thực phẩm xuất khẩu Đồng Giao. Ảnh: Đức Bình.

Song song với đầu tư công nghệ, DOVECO chú trọng xây dựng mối liên kết bền chặt trong sản xuất nông nghiệp. DOVECO đã chủ động cung ứng giống, thuốc bảo vệ thực vật, hỗ trợ kỹ thuật gieo trồng, chăm sóc và cam kết bao tiêu sản phẩm, hỗ trợ vận chuyển cho người dân.

Đơn cử như vùng nguyên liệu chanh leo được đưa vào trồng tại Sơn La từ năm 2019 đã khẳng định tiềm năng về năng suất và chất lượng. Tuy nhiên, sau thời gian sinh trưởng dài và qua nhiều vụ thu hoạch, nhiều diện tích đã bước vào giai đoạn thoái hóa, sâu bệnh gia tăng.

Để phát triển vùng nguyên liệu bền vững, DOVECO triển khai giải pháp luân canh, loại bỏ diện tích nhiễm bệnh, chuyển sang trồng ngô hoặc đậu tương rau trong một vụ để cải tạo đất và ngắt nguồn sâu bệnh, sau đó trồng mới cây chanh dây. Hiện giá thu mua chanh dây dao động từ 23.000 – 24.000 đồng/kg, tạo động lực cho người dân yên tâm sản xuất.

Với các giải pháp đồng bộ, doanh nghiệp từng bước hình thành vùng nguyên liệu tập trung chất lượng cao, an toàn, giúp ổn định nguồn cung theo mùa vụ, đồng thời tạo niềm tin cho người dân về đầu ra sản phẩm. Đây là bước đi quan trọng hướng tới mục tiêu phát triển nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân thông minh.

DOVECO kiến nghị Sơn La quan tâm quy hoạch và bảo vệ quỹ đất vùng nguyên liệu lâu dài, hỗ trợ chính sách tín dụng và đầu tư hạ tầng, tăng cường liên kết sản xuất - chế biến - tiêu thụ, hỗ trợ giống cây trồng, chuyển giao kỹ thuật nhằm xây dựng vùng trồng đạt chuẩn quốc tế.

Ông Nguyễn Quang Vinh, Giám đốc HTX Nông nghiệp Ngọc Hoàng:

Tiếp sức về vốn và thị trường cho HTX

HTX Nông nghiệp Ngọc Hoàng (xã Nà Bó, huyện Mai Sơn) được thành lập với 11 thành viên ban đầu, đến nay đã phát triển lên 215 thành viên, canh tác hơn 500ha cây ăn quả, trong đó chủ lực là cây thanh long ruột đỏ.

Ông Nguyễn Quang Vinh, Giám đốc HTX Nông nghiệp Ngọc Hoàng. Ảnh: Đức Bình.

Ông Nguyễn Quang Vinh, Giám đốc HTX Nông nghiệp Ngọc Hoàng. Ảnh: Đức Bình.

Năm 2024, HTX thu hoạch 200ha thanh long với tổng sản lượng khoảng 4.000 tấn, trong đó 800 tấn đã được xuất khẩu sang các thị trường khó tính như Nga, Pháp, Đức, Ý, Hà Lan thông qua đối tác trung gian. Doanh thu toàn HTX đạt 8,4 tỷ đồng, bình quân đạt khoảng 300 triệu đồng/ha - một con số đáng khích lệ trong điều kiện sản xuất nông nghiệp miền núi.

Điểm nổi bật là HTX đã mạnh dạn áp dụng mô hình sản xuất hữu cơ, sử dụng phân bón hữu cơ vi sinh thay thế hoàn toàn phân hóa học, tuyệt đối không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật độc hại, kết hợp với công nghệ tưới tiết kiệm, cắt tỉa cành. Nhờ đó, thời vụ thu hoạch được kéo dài từ 6 tháng lên 9 tháng/năm, số lứa quả tăng từ 3 - 4 lên 8 - 9 lứa/năm. Năng suất bình quân đạt 20 - 25 tấn/ha, có hộ đạt tới 40 tấn/ha. HTX đã bước đầu hình thành chuỗi sản xuất - tiêu thụ - xuất khẩu, nâng cao giá trị sản phẩm.

Tuy nhiên, HTX vẫn gặp nhiều khó khăn do thiếu vốn đầu tư kho lạnh, hệ thống chiếu sáng ban đêm, thiết bị sơ chế và bảo quản sau thu hoạch, quy mô sản xuất còn nhỏ lẻ, chưa đồng bộ, việc phát triển thương hiệu, nhãn hiệu các loại cây ăn quả chưa đáp ứng yêu cầu, chưa thể xuất khẩu trực tiếp mà vẫn phụ thuộc vào doanh nghiệp trung gian.

HTX kiến nghị tỉnh và các sở, ngành liên quan quan tâm hỗ trợ đơn vị tổ chức lại vùng nguyên liệu, hình thành các vùng trồng tập trung theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP, đào tạo kỹ thuật xử lý ra hoa trái vụ nhằm tăng thời vụ và năng suất, đồng thời thúc đẩy chuyển đổi số trong sản xuất, ứng dụng sử dụng nhật ký điện tử, QR code để truy xuất nguồn gốc và quản lý chất lượng sản phẩm.

Bên cạnh đó, HTX mong muốn được ký kết hợp đồng tiêu thụ ổn định, dài hạn với các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu uy tín, qua đó từng bước tiếp cận sâu hơn vào các thị trường khó tính như Nhật Bản, EU, góp phần nâng cao giá trị gia tăng và vị thế của nông sản Sơn La.

(Ghi)

Xem thêm
Bí quyết nuôi chồn sinh sản không bị cận huyết

CÀ MAU Ông Lê Hoàng Trung ở Cà Mau nuôi chồn sinh sản, bán giống 8 triệu đồng/cặp, chồn thịt 1,3 - 1,4 triệu đồng/kg, thu nhập ổn định, vươn lên làm giàu.

Xây dựng vùng an toàn dịch bệnh với khu vực chăn nuôi nhỏ lẻ

QUẢNG NINH Quảng Ninh đang từng bước xây dựng vùng an toàn dịch bệnh với khu vực chăn nuôi nông hộ, nhỏ lẻ, coi đây là nhiệm vụ quan trọng để phát triên bền vững.

Hợp tác nghiên cứu và chuyển giao công nghệ canh tác sầu riêng

ĐẮK LẮK Chiều 12/5, Viện Khoa học kỹ thuật Nông lâm nghiệp Tây Nguyên và Hiệp hội sầu riêng Đắk Lắk ký hợp tác nghiên cứu, chuyển giao công nghệ trong canh tác sầu riêng.

Tối ưu vận hành liên hồ chứa bằng công nghệ và dữ liệu

Khi tài nguyên nước trở nên khan hiếm và biến động khó lường, ngành thủy lợi chủ động tái cấu trúc cách thức quản lý dựa trên nền tảng công nghệ và dữ liệu.

Đồng Tháp tập huấn về AI cho cán bộ và người dân

Đồng Tháp tổ chức tập huấn AI nhằm nâng cao nhận thức chuyển đổi số cho cán bộ, công chức, viên chức và người dân trên địa bàn tỉnh.

Thu 'lợi kép' nhờ nuôi cá lồng kết hợp với du lịch trải nghiệm

Kết hợp nuôi cá lồng với du lịch trải nghiệm giúp các cơ sở tại hồ Hòa Bình thuận lợi tiêu thụ sản phẩm, đồng thời có thêm nguồn thu từ dịch vụ đi kèm.

Gắn kết học thuật với chính sách lâm nghiệp thông qua mạng lưới nghiên cứu

Trường Đại học Lâm nghiệp gắn kết học thuật với chính sách thông qua mạng lưới nghiên cứu góp phần phát triển bền vững ngành lâm nghiệp.