Những năm qua, cùng với công tác bảo tồn đa dạng sinh học, Ban Quản lý Khu bảo tồn đã triển khai nhiều chương trình hỗ trợ sinh kế, giúp người dân vùng đệm từng bước thoát nghèo, ổn định cuộc sống. Đặc biệt, việc ứng dụng chuyển đổi số trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm địa phương đang mở ra hướng đi mới cho phát triển bền vững. Nhân dịp này, phóng viên Báo Nông nghiệp và Môi trường đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Văn Sinh, Giám đốc Ban Quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hoạt (tỉnh Nghệ An) xung quanh nội dung trên.
Công tác giảm nghèo cho người dân vùng đệm gắn liền với nhiệm vụ bảo vệ rừng
Thưa ông, trong những năm qua, công tác giảm nghèo cho người dân vùng đệm luôn được gắn liền với nhiệm vụ bảo vệ rừng. Xin ông cho biết, Ban đã triển khai những chương trình, chính sách cụ thể nào nhằm giúp người dân phát triển sinh kế bền vững, vừa cải thiện đời sống vừa góp phần giữ rừng?.
Ban quản lý Khu BTTN Pù Hoạt được giao nhiệm vụ quản lý, bảo vệ 84.616,82 ha rừng và đất lâm nghiệp thuộc quy hoạch rừng đặc dụng và rừng phòng hộ, phân bố trên địa bàn 5 xã. Diện tích rừng chủ yếu chủ yếu được phân bố ở các khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng giáp ranh với biên giới Việt - Lào. Vùng đệm của Khu BTTN Pù Hoạt có hơn 74 thôn; tổng dân số 47.609 nhân khẩu với thành phần dân tộc đa dạng bao gồm: Thái, Kinh, Khơ mú, Thổ và Mông. Đời sống của nhân dân trên địa bàn còn gặp nhiều khó khăn, điều kiện sản xuất và thu nhập chủ yếu dựa vào nông, lâm nghiệp. Vì vậy, đây là một áp lực không nhỏ đối với công tác quản lý bảo vệ và phát triển rừng, bảo tồn đa dạng sinh học đối với Khu BTTN Pù Hoạt.
Ông Nguyễn Văn Sinh, Giám đốc Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hoạt. Ảnh: Phạm Tuân.
Xuất phát từ đặc điểm đó, BQL Khu BTTN Pù Hoạt đã xác định để thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị được giao, quản lý tốt diện tích rừng hiện có và bảo tồn các giá trị đa dạng sinh học thì giải pháp quan trọng, bền vững, hiệu quả nhất và mang tính chiến lược là tạo ra sinh kế bền vững, nâng cao đời sống, xóa đói giảm nghèo cho nhân dân trong vùng đệm. Trong những năm qua, đơn vị đã triển khai nhiều chương trình, chính sách nhằm giúp người dân phát triển sinh kế bền vững, vừa cải thiện đời sống, tạo thu nhập ổn định, vừa góp phần bảo vệ rừng, bảo tồn đa dạng sinh học. Trong thời gian qua, BQL Khu BTTN Pù Hoạt phối hợp với chính quyển địa phương triển khai một số chương trình, chính sách như sau:
Thứ nhất, triển khai đồng bộ chính sách giao khoán bảo vệ rừng cho các công đồng dân cư: Trong những năm qua, đơn vị đã tranh thủ các nguồn lực, các cơ chế, chính sách của Nhà nước để tổ chức giao khoán bảo vệ rừng cho người dân và vận động người dân tham gia nhận khoán bảo vệ rừng. Thông qua các hoạt động nhận khoán bảo vệ rừng, tuần tra, kiểm tra rừng để người dân nhận thức rõ hơn về giá trị, nguồn lợi từ rừng mang lại, từ đó mọi người có trách nhiệm và tự nguyện để bảo vệ rừng. Hàng năm, BQL Khu BTTN Pù Hoạt đã tổ chức thực hiện giao khoán bảo vệ rừng hơn 65.000 ha cho 44 công đồng thôn bản với hơn 7.000 hộ gia đình tham gia với thu nhập bình quân từ 5 - 7 triệu đồng/hộ gia đình/năm.
Thứ hai, tập trung hỗ trợ người dân thực hiện công tác phát triển rừng trên diện tích rừng đã được Nhà nước giao cho hộ gia đình, cá nhân, đặc biệt tập trung phát triển theo hướng sản xuất gỗ lớn với các loài cây có giá trị kinh tế cao, các loài cây đặc sản. Thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững năm 2025, đơn vị đã hỗ trợ người dân trên địa bàn trồng 14,5 ha Quế tập trung và 44.500 cây Quế phân tán.
Thứ ba, xây dựng các mô hình sinh kế bền vững: Thông qua các chương trình dự án đầu tư, BQL Khu BTTN Pù Hoạt đã tập huấn, chuyển giao khoa học kỹ thuật và áp dụng xây dựng các mô hình sinh kế bền vững cho người dân. Một số mô hình sinh kế tiêu biểu đã triển khai như: Mô hình phát triển cây Chè Hoa vàng dưới tán rừng ở xã Thông Thụ, xã Tiền Phong; Mô hình trồng Bon bo dưới tán rừng ở các xã: Tri lễ, Quế Phong, Thông thụ; Mô hình trồng cây dược liệu dưới tán rừng như: trồng Đẳng sâm ở xã Thông Thụ; trồng Mú Từn ở xã Tiền Phong; trồng Ba Kích ở xã Thông Thụ...
Phát triển lâm nghiệp bền vững được Ban quản lý Khu bảo tồn thiên hiên Pù Hoạt rất chú trọng. Ảnh: Đình Tiệp.
Thứ tư, xây dựng các công trình phát triển công đồng: Thực hiện Chương trình phát triển Lâm nghiệp bền vững, Chương trình ERPA, trong năm 2024 và 2025, đơn vị đã hỗ trợ 106 công trình phát triển nông thôn cho 54 công đồng thôn bản vùng đệm góp phần cải thiện điều kiện cơ sở vật chất và cải thiện đời sống sinh hoạt cho Nhân dân.
Bên cạnh việc hỗ trợ sinh kế, việc tiêu thụ sản phẩm từ rừng, dược liệu và nông sản địa phương vẫn là vấn đề nhiều hộ dân gặp khó khăn. Ông có thể chia sẻ thêm về những giải pháp mà Ban đã và đang thực hiện để kết nối thị trường, đặc biệt là việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong khâu tiêu thụ sản phẩm cho người dân?.
Khó khăn lớn nhất và dễ nhận thấy đối với các khu vực miền núi nói chung đó là vấn đề tiêu thụ các sản phẩm từ rừng, các sản phẩm dược liệu và nông sản của địa phương. Đây có thể xem là nút thắt, là "điểm nghẽn" lớn nhất trong chuỗi sản xuất nông nghiệp tại địa phương. "Điểm nghẽn" này là nguyên nhân chính đang kìm hãm quá trình phát triển tại địa phương. Hầu hết các sản phẩm từ rừng, dược liệu và nông sản trên địa bàn được thu mua bởi các thương lái; giá cả và thị trường tiêu thụ chưa ổn định. Sự phát triển các mô hình, hàng hóa chủ yếu mang tính tự phát, chưa gắn với thị trường, với chuỗi giá trị hàng hóa và chưa có liên kết sản xuất với tiêu thu nông sản để tăng quy mô sản xuất, đảm bảo sản phẩm, an toàn thực phẩm, đáp ứng yêu cầu thị trường.
Những khó khăn, thách thức trên của người dân địa phương luôn đặt ra những trăn trở, băn khoăn trong việc tìm ra giải pháp tháo gỡ. Đặc biệt trong giai đoạn Việt Nam đang chuyển dịch sang giai đoạn phát triển mới - nơi giảm nghèo gắn với chuyển đổi xanh, nâng cao năng lực người dân và thúc đẩy đổi mới, sáng tạo ở khu vực nông thôn. Thời gian qua, BQL Khu BTTN Pù Hoạt đã bước đầu triển khai một số giải pháp như sau:
Cán bộ BQL Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hoạt xuống tuyên truyền tại cơ sở. Ảnh: Phạm Tuân.
Tăng cường tập huấn và chuyển giao các kiên thức, tiến bộ về khoa học công nghệ để người dân áp dụng vào quá trình sản xuất thực tiễn ở địa phương, đặc biệt chú trọng việc áp dụng công nghệ số, các kiến thức cơ bản để người dân tự tin tiếp cận thi trường.
Hướng dẫn người dân cách thức khai thác các thông tin mạng để phục vụ sản xuất, đồng thời quảng bá sản phẩm của địa phương.
Khâu nối, kêu gọi các dự án, các tổ chức trong nước để cùng phối hợp, hỗ trợ để xây dựng thành chuỗi sản xuất theo hướng liên kết giữa nhà nông với doanh nghiệp qua đó tăng giá trị sản xuất thông qua chế biến sâu và tiếp cận với thị trường tiêu thụ. Thời gian qua, một số tổ chức như CIDOMA, Trung tâm con người và Sinh quyển …đã có những hỗ trợ bước đầu rất hiệu quả.
Phối hợp với chính quyền địa phương để kêu gọi các Nhà đầu tư vào khảo sát và xây dựng các nhà máy chế biến, chiết xuất tinh dầu...để tạo đầu ra cho các sản phẩm và tạo niềm tin cho người dân đâu tư vào sản xuất.
Người dân tiếp cận thông tin và sử dụng các nền tảng số để... thoát nghèo
Được biết thời gian qua, Ban cũng rất chú trọng đến công tác tuyên truyền, tập huấn, giúp người dân tiếp cận thông tin và sử dụng các nền tảng số trong sản xuất, kinh doanh. Ông có thể cho biết rõ hơn hiệu quả của hoạt động này và sự thay đổi trong nhận thức, cách làm của bà con vùng đệm sau khi được hỗ trợ?.
Hiện nay chuyển đổi số và kinh tế xanh đang lan toả mạnh mẽ ở nông thôn đã tạo ra cơ hội rất tốt để các địa phương thúc đẩy giảm nghèo bền vững. Tuy nhiên, để nắm bắt được cơ hội và không để mình bị “bỏ lại phía sau” thì người dân miền núi cần phải được trang bị đủ kiến thức, kỹ năng và sự tự tin vào bản thân mình để thoát nghèo. Từ thực tiễn đó, trong thời gian qua đơn vị đã tập trung mọi nguồn lực để hỗ trợ người dân thông qua các buổi tập huấn, gắn với các kiến thức bảo vệ rừng với phát triển lâm nghiệp và chuyển đổi số.
Kiểm tra mô hình trồng khoai sọ thương phẩm tại xã Quế Phong. Ảnh: Phạm Tuân.
Từ những kiến thức đã được tuyên truyền, tập huấn, đặc biệt kiến thức về công nghệ số, người dân đã chủ động, tự tin để tiếp cận tri thức, thị trường và dịch vụ tài chính, qua đó đã mở rộng sinh kế và tăng hiệu quả sản xuất. Điển hình như người dân bản Pục, xã Quế Phong (xã Nâm Giải cũ) đã thành lập các hợp tác xã chăn nuôi; xây dựng các mô hình canh tác tiến tiến; người dân xã Thông Thụ đã chuyển đổi dần sang các loại cây trồng đặc sản của địa phương như: Quế, Mỡ … Với những kiến thức được trang bị, người dân đã dần tự tin làm giàu trên mảnh đất của mình dựa trên những kiến thức bản địa, kết hợp với khoa học công nghệ. Từ những hiệu quả sản xuất đang dần đưa người dân địa phương giảm nghèo, giảm ảnh hưởng tác động vào rừng.
Hướng tới mục tiêu giảm nghèo bền vững gắn với bảo tồn thiên nhiên, trong thời gian tới, Ban có những định hướng, giải pháp trọng tâm nào để tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi số, phát triển sinh kế xanh và nâng cao đời sống người dân địa phương?.
Hướng tới mục tiêu giảm nghèo bền vững gắn với bảo tồn thiên nhiên trong bối cảnh chuyển đổi số và kinh tế xanh, BQL Khu BTTN Pù Hoạt có một số định hướng như sau:
Một là, tiếp tục bố trí các nguồn lực để tổ chức tuyên truyền, tập huấn những kiến thức, kỹ năng về quản lý bảo vệ rừng gắn với sản xuất, đặc biệt là lông ghép vào kiến thức chuyển đổi số, công nghệ IA để trang bị đây đủ nền tảng kiến thức và kỹ năng cho người dân, tạo sự tự tin hoà nhập và bắt nhịp với xu thế chung của xã hội.
Người dân vùng đệm Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hoạt ngày càng có sinh kế ổn định. Ảnh: Phạm Tuân.
Hai là, thu hút tối đa các nguồn lực của các chương trình, dự án và các chính sách về trên địa bàn để hỗ trợ người dân có sinh kế bền vững và từng bước thoát nghèo, đồng thời phối hợp lồng ghép các cơ chế, chính sách để tạo ra nguồn lực đủ mạnh và tăng hiệu quả hỗ trợ đầu tư.
Ba là, phối hợp với chính quyền địa phương vận động người dân chuyển đổi dần cơ cấu các loài cầy trồng phù hợp với điều kiện địa phương và có hiệu quả kinh tế cao; xây dựng các mô hình liên doanh liên kết để tạo ra sản phẩm hành hoá.
Bốn là, phối hợp với chính quyền địa phương để kêu gọi và thu hút các nhà đầu tư xây dựng các cơ sở chế biến trên địa bàn để tạo đầu ra bền vững cho các sản phẩm.




























