‘Sớm nở’...
Xã Tuyên Lâm, tỉnh Quảng Trị (sáp nhập từ hai xã Lâm Hóa và Thanh Hóa của huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình cũ) là địa phương có diện tích rừng khoanh nuôi, bảo vệ lớn. Bên cạnh việc bảo vệ và phát triển rừng, đồng bào được phép khai thác nguồn lâm sản phụ ngoài gỗ.
Rừng ở đây với đa dạng các loài tre, nứa, giang, pheo… là nguồn nguyên liệu dồi dào cung cấp măng cho bữa ăn hàng ngày của đồng bào. Đặc biệt là măng nứa, loại măng có độ mềm, giòn và thơm ngon. Đó cũng là nguồn nguyên liệu để chế biến măng khô trở thành một thương hiệu của người Mã Liềng (một nhánh của dân tộc Chứt) tại bản Kè.

Là vùng miền núi với lợi thế diện tích rừng khoanh nuôi bảo vệ lớn, lựa chọn măng rừng xây dựng sản phẩm OCOP là một hướng đi đúng của xã Tuyên Lâm. Ảnh: Võ Dũng.
Năm 2021, sản phẩm măng khô Mã Liềng đạt tiêu chuẩn sản phẩm OCOP 3 sao. Giấc mơ giảm nghèo, tăng thu nhập cho đồng bào từ sản phẩm OCOP được “tiếp sức” vào năm 2024 khi Dự án quản trị đất đai khu vực sông Mekong (MRLG) hỗ trợ tổ hợp tác (THT) lâm nghiệp cộng đồng Mã Liềng nhà sấy măng, kết hợp chạy điện lưới và năng lượng mặt trời.
Mục tiêu dự án hướng tới là phát triển chuỗi giá trị sản phẩm rừng cộng đồng, hỗ trợ việc làm, tăng thu nhập, góp phần ổn định đời sống, sinh kế cho tộc người Mã Liềng. Từ việc phơi thủ công hoàn toàn phụ thuộc vào thời tiết, từ đây, măng rừng tại các bản Kè, Cáo, Chuối sẽ được sấy trong nhà, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm và chất lượng. Chi phí vận hành nhà sấy măng cũng sẽ giảm đáng kể với việc tận dụng năng lượng mặt trời.
Măng khô Mã Liềng được kỳ vọng không chỉ là một sản phẩm thương mại thuần túy mà nó còn chứa đựng cả nét văn hóa truyền thống, khát vọng vươn lên của đồng bào Mã Liềng trong tiến trình phát triển.
Bà Cao Thị Vân, tổ trưởng THT lâm nghiệp cộng đồng Mã Liềng cho biết, để vận hành nhà sấy măng, THT phân công 5 thành viên nòng cốt tại bản Kè chịu trách nhiệm điều hành các hoạt động quản lý, sản xuất, chế biến và phân phối sản phẩm; 3 tổ khai thác nguyên liệu, mỗi tổ từ 7- 10 người ở các bản Kè, Cáo, Chuối. Thành viên các tổ khai thác chủ yếu là phụ nữ, tham gia khai thác măng tươi từ các rừng cộng đồng theo đơn đặt hàng của THT. Để đảm bảo chất lượng sản phẩm, măng được khai thác là những búp măng còn non, mập, quá trình khai thác phải bảo đảm duy trì sự phát triển bền vững của khu rừng, không khai thác triệt để làm suy giảm nguồn nguyên liệu và ảnh hưởng đến chức năng phòng hộ của rừng.

Việc xây dựng sản phẩm OCOP từ măng rừng cũng được nhiều dự án tiếp sức. Ảnh: Võ Dũng.
Sau khi thu mua măng tươi, THT sẽ phân loại, chọn lọc những búp măng đủ tiêu chuẩn để sơ chế và đưa vào nhà sấy. Công đoạn này đòi hỏi sự tỉ mỉ, nhuần nhuyễn trong từng thao tác, bảo đảm kỹ thuật, thời gian ở từng khâu để măng ra lò có màu vàng đều, giòn thơm, đạt chất lượng.
Sản phẩm măng khô Mã Liềng được sản xuất với quy trình như vậy mang theo nhiều kỳ vọng và được một doanh nghiệp cam kết thu mua. Nhưng sau nhiều năm đạt sản phẩm OCOP 3 sao, măng khô Mã Liềng dần đi vào ngõ cụt. Hoạt động sấy măng gần như ngừng hẳn. Thay vì bán cho THT, đồng bào lại đem măng tươi ra bán tại các điểm tạp hóa hoặc bán cho các thương lái.
Nhưng nguy cơ ‘tối tàn’
Có thời điểm, lãnh đạo xã Lâm Hóa (huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình cũ) phấn khởi vì việc thành lập và vận hành THT lâm nghiệp cộng đồng Mã Liềng cũng như quá trình xây dựng, phát triển mô hình sản xuất măng khô Mã Liềng đã tạo cơ hội cho bà con tiếp cận và đổi mới tư duy sản xuất, tăng thu nhập, ổn định đời sống. Từ việc lấy măng về để ăn và bán với giá cả bấp bênh, đồng bào đã có THT thu mua với sản lượng và giá cả ổn định. Thời điểm đó, vào vụ thu mua của THT, bình quân mỗi ngày, một thành viên trong nhóm khai thác măng rừng cũng có thu nhập từ 250- 300 nghìn đồng tiền công.

Tuy nhiên, niềm hi vọng của đồng bào Mã Liềng sớm nở, tối tàn. Ảnh: Võ Dũng.
Thế nhưng, niềm vui ngắn chẳng tày gang. Hơn 1 năm sau khi được Dự án quản trị đất đai khu vực sông Mekong hỗ trợ, nhà sấy măng đứng trước nguy cơ "chết lâm sàng”.
Chờ mãi chúng tôi mới gặp được bà Cao Thị Vân, tổ trưởng THT Lâm nghiệp cộng đồng Mã Lèng. Trụ sở THT dường như bị lãng quên dù nằm ngay đầu con đường dẫn vào bản Kè. Đây đang là thời điểm chính vụ khai thác măng rừng nhưng bếp luộc măng đã nguội lạnh. Cột hiên nhà mục nát, trong trụ sở chỉ có vài chiếc ghế bám đầy bụi bẩn. Cạnh trụ sở là một nhà sấy măng rộng chừng vài mét vuông đã từ lâu không vận hành.
Theo bà Vân, tính bình quân, mỗi năm THT lâm nghiệp cộng đồng Mã Liềng chỉ sản xuất được từ 50-100 kg măng khô, tương đương với 2- 4 tấn măng tươi. Còn thời điểm hiện tại, hoạt động thu mua và sấy măng tại THT lâm nghiệp cộng đồng Mã Liềng đang phải tạm ngừng. “Thời điểm này măng đắt, năm nay không làm (măng khô) vì THT không có tiền cho dân ứng trước. Dân ứng tiền chi tiêu, mua chịu ở các tiệm tạp hóa nên đem măng ra đó bán”, bà Cao Thị Vân tiếc nuối.
Cũng theo bà Vân, măng khô Mã Liềng sản xuất theo đơn đặt hàng của Công ty TNHH Sinh thái Miền Tây Quảng Bình. Đặt hàng bao nhiêu, công ty thu về bấy nhiêu với giá 280- 300 nghìn đồng/kg. Chế biến và bán được cho công ty sẽ có lãi nhưng cái khó bó cái khôn, việc sấy măng của THT có nguy cơ ngừng hẳn vì thiếu vốn quay vòng. Năm thành viên THT chỉ góp được 5 triệu đồng tiền vốn để thu mua măng, không đủ để cho người dân ứng trước. Vì vậy, măng “chảy” vào các cửa hàng tạp hóa trên địa bàn và tư thương.
Khi chúng tôi hỏi, vì sao không đặt vấn đề vay vốn ngân hàng hoặc xin ứng trước từ đơn vị thu mua để đầu tư sản xuất măng khô, duy trì thương hiệu OCOP thì bà Vân ngần ngại lắc đầu.
Nhìn từ Mã Liềng, có thể thấy, dù doanh nghiệp và các chương trình dự án đã mở ra một không gian, nguồn lực để tiếp sức cho sản phẩm OCOP nhưng có lẽ, chừng ấy vẫn là chưa đủ. Thay đổi tập quán, tư duy sản xuất của đồng bào ở vùng sâu vùng xa, phát huy lợi thế để phát triển kinh tế, từng bước nâng cao thu nhập là câu chuyện không dễ gì làm được trong một sớm một chiều.

THT Lâm nghiệp cộng đồng Mã Liềng gần như ngừng hoạt động. Ảnh: Võ Dũng.
Với lối tư duy ấy, không khó hiểu khi đời sống đồng bào tại các bản làng vùng sâu vùng xa còn nhiều khó khăn. Riêng với bản kè, 66/67 hộ là người dân tộc Mã Liềng với tỷ lệ hộ nghèo theo tiếp cận đa chiều trên 98%, thuộc diện cao nhất tại xã Tuyên Lâm. Có lẽ, cái nghèo sẽ còn đeo bám đồng bào khi tư liệu sản xuất thiếu. Nếu chỉ dựa vào việc kiếm măng, lá nón, mây dưới tán rừng thì công tác giảm nghèo, tăng thu nhập sẽ là bài toán nan giải.
Sản phẩm OCOP, dù có sớm nở, tối tàn dù sao cũng còn mang đến niềm hi vọng thoát nghèo. Còn có địa phương, lãnh đạo xã loay hoay với việc xác định sản phẩm lợi thế để xây dựng sản phẩm OCOP. Điều ấy cũng đồng nghĩa với việc con đường thoát nghèo đang ở rất xa, có khi chỉ trong tiềm thức. Xã Dân Hóa, tỉnh Quảng Trị cũng nằm trong những địa phương như thế.