Tận dụng lợi thế rừng sú vẹt ngập mặn
Xã Nga Thủy, huyện Nga Sơn (cũ), nay là xã Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa là xã ven biển, đất đai nhiễm mặn, ít thuận lợi cho canh tác nông nghiệp truyền thống. Trước đây, đời sống bà con chủ yếu dựa vào nghề đi biển hoặc làm thuê theo thời vụ. Tuy nhiên, nguồn thu nhập bấp bênh, nhiều hộ rơi vào cảnh khó khăn.

Anh Trần Văn Sửu nuôi khoảng 500 tổ ong bên rừng sú vẹt. Ảnh: Thu Thủy.
Những năm gần đây, nhờ chính sách giao khoán, bảo vệ và phát triển rừng ngập mặn, diện tích cây sú vẹt tại Nga Sơn được phục hồi mạnh mẽ, phủ xanh hàng trăm ha bãi bồi ven biển. Đây chính là môi trường lý tưởng cho đàn ong sinh trưởng và phát triển.
Nhận thấy tiềm năng này, một số hộ dân tiên phong đưa ong về đặt tổ trong rừng, từ đó hình thành nghề nuôi ong đặc thù bên rừng sú vẹt. Anh Trần Văn Sửu (xã Nga Sơn), một trong những người tiên phong và gắn bó lâu năm với nghề, chia sẻ: “Gia đình tôi làm nghề nuôi ong lấy mật đã được gần 10 năm. Hiện nay tôi duy trì khoảng 500 tổ ong, mỗi năm thu nhập khoảng 200 triệu đồng. Nhờ có nghề này mà cuộc sống gia đình khấm khá hơn, con cái có điều kiện học hành đầy đủ”.
Sinh kế từ nghề nuôi ong dưới tán rừng ngập mặn
Gắn bó với nghề nuôi ong đã gần 10 năm, bắt đầu từ vài chục tổ ong ban đầu, đến nay anh Trần Văn Sửu đã mở rộng lên khoảng 500 tổ, mỗi năm mang lại thu nhập ổn định khoảng 200 triệu đồng – con số không nhỏ đối với một hộ dân vùng ven biển.

Anh Sửu cho biết, nuôi ong bên rừng sú vẹt không chỉ đem lại thu nhập mà còn gắn bó mật thiết với việc bảo vệ môi trường. Ảnh: Thu Thủy.
Chia sẻ về kinh nghiệm nuôi ong, anh Sửu cho biết, rừng sú vẹt chính là “nguồn sống” của đàn ong. Khi hoa sú vẹt nở trắng từ tháng 3 đến tháng 6, cả cánh rừng trở thành nguồn mật phong phú, sạch và giàu dinh dưỡng. Người nuôi gần như không phải tốn chi phí cho thức ăn mà chủ yếu đầu tư vào thùng ong, dụng cụ quay mật và dành thời gian theo dõi, chăm sóc đàn ong để tránh dịch bệnh và các tác động từ tự nhiên như khí hậu và môi trường.
Tuy nhiên, để đàn ong khỏe mạnh và cho năng suất cao, người nuôi phải thường xuyên kiểm tra thùng ong, phòng chống dịch bệnh, nhất là vào thời điểm giao mùa. Anh Sửu còn chú trọng bố trí thùng ong ở những vị trí thông thoáng, tránh gió mạnh và ngập nước khi triều lên. “Nuôi ong ở vùng ngập mặn khác với trên đồi núi vì phải tính đến thủy triều lên xuống. Nếu sơ ý đặt thùng thấp quá thì chỉ cần một đợt nước dâng là ong có thể bị chết hàng loạt”, anh Sửu chia sẻ.
Mỗi vụ mật, anh thường thu hoạch làm nhiều đợt, dùng máy quay mật để lấy phần tinh túy mà vẫn giữ ong khỏe cho mùa tiếp theo. Nhờ mật ong sú vẹt có màu vàng sẫm, hương vị đậm đà, khác biệt so với mật ong rừng hay mật ong nuôi từ hoa nhãn, hoa vải. Sản phẩm của anh luôn được thương lái ưa chuộng, bán ra thị trường với giá cao và ổn định. Không ít khách hàng sau khi thử một lần đã quay lại mua, bởi mật ong sú vẹt vừa nguyên chất, vừa có hương thơm rất riêng.

Nghề nuôi ong bên rừng sú vẹt ở Nga Sơn không chỉ đơn thuần là một sinh kế, mà còn mở ra hướng phát triển kinh tế gắn liền với bảo tồn thiên nhiên. Ảnh: Thu Thủy.
Theo anh Sửu, nuôi ong bên rừng sú vẹt không chỉ đem lại thu nhập mà còn gắn bó mật thiết với việc bảo vệ môi trường. “Nếu rừng sú vẹt xanh tốt thì ong mới có mật. Bởi vậy, gia đình tôi cũng như nhiều hộ khác đều có ý thức giữ rừng. Có rừng mới có ong, có ong mới có kế sinh nhai”, anh Sửu nói.
Nghề nuôi ong bên rừng sú vẹt ở Nga Sơn không chỉ đơn thuần là một sinh kế, mà còn mở ra hướng phát triển kinh tế gắn liền với bảo tồn thiên nhiên. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, xâm nhập mặn và suy giảm nguồn lợi thủy sản đang là thách thức lớn, việc khai thác bền vững hệ sinh thái rừng ngập mặn để tạo ra sản phẩm có giá trị là bước đi đúng đắn.
Trong tương lai, nếu nghề nuôi ong sú vẹt tiếp tục được mở rộng, gắn liền với phát triển du lịch sinh thái và xây dựng thương hiệu sản phẩm đặc trưng, Nga Sơn có thể trở thành điểm sáng trong phát triển kinh tế bền vững ở vùng ven biển Thanh Hóa.