Đây là chia sẻ được các doanh nghiệp đưa ra tại hội thảo “Tăng trưởng thị phần - Định vị thương hiệu Việt trên không gian số” do Báo Sài Gòn Giải Phóng tổ chức ngày 9/9.
Ông Nguyễn Đình Tùng - Phó Chủ tịch Hiệp hội Rau quả Việt Nam cho biết, hiện nay trái cây Việt Nam đã có mặt tại nhiều thị trường khó tính như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Canada... Những thị trường mà cách đây hơn 10 năm chúng ta từng nghĩ là rất khó tiếp cận, giờ đây trái cây Việt đã chinh phục thành công.

Ông Nguyễn Đình Tùng - Phó Chủ tịch Hiệp hội Rau quả Việt Nam cho rằng cần có sự chung tay để xây dựng thương hiệu nông sản Việt. Ảnh: Hoàng Hùng.
Tuy vậy, ông chỉ ra một thực tế đáng chú ý, ngay tại thị trường trong nước, niềm tin đối với nông sản Việt vẫn chưa đồng bộ. Có thời điểm, người tiêu dùng nghĩ trái cây Việt kém chất lượng, giá rẻ, trong khi để đưa một lô thanh long sang Mỹ, doanh nghiệp phải tuân thủ quy trình kiểm dịch nghiêm ngặt, vận chuyển bằng đường hàng không với chi phí lên tới 6-7 USD/kg. Nếu sản phẩm không đảm bảo tiêu chuẩn, chúng ta không thể vào được Mỹ hay Nhật Bản.
Ở góc độ người trực tiếp đưa hàng Việt vào hệ thống bán lẻ tại Mỹ, ông Kris Nguyễn - Founder New Ocean cho rằng cơ hội cho nông sản Việt tại thị trường Mỹ rất lớn. “Theo khảo sát, cứ 10 hạt điều trên bàn ăn của người Mỹ thì có đến 8 hạt xuất xứ từ Việt Nam. Ngoài hạt điều, nhiều loại trái cây như vải thiều Bắc Giang đã vào được hệ thống Costco - chuỗi siêu thị lớn nhất nước Mỹ với hàng nghìn điểm bán,” ông dẫn chứng.

Cần chiến lược bài bản để xây dựng thương hiệu nông sản Việt. Ảnh: Hà Duyên.
Tuy nhiên, để vào được những hệ thống bán lẻ này, doanh nghiệp Việt phải vượt qua nhiều yêu cầu nghiêm ngặt. Bởi các đối tác Mỹ yêu cầu truy xuất nguồn gốc rõ ràng, quy trình sản xuất đạt chuẩn quốc tế và phải duy trì nguồn cung ổn định. Có đối tác còn cử chuyên gia sang tận nhà máy tại Việt Nam kiểm tra quy trình sản xuất, đồng thời yêu cầu doanh nghiệp đặt kho dự trữ hàng tại Mỹ để kịp thời cung ứng.
Điều đáng chú ý, theo ông Kris, là người tiêu dùng Mỹ không quan tâm đến tên doanh nghiệp, mà chỉ nhớ sản phẩm đến từ Việt Nam. “Họ sẽ nói hạt điều Việt Nam, chứ không nhớ đây là của công ty nào. Điều họ quan tâm là chất lượng và độ tin cậy của nông sản Việt. Người tiêu dùng quốc tế không nhớ tên một công ty cụ thể, họ chỉ biết đây là trái cây Việt Nam. Thương hiệu nông sản không phải tài sản riêng của một doanh nghiệp, mà là giá trị chung cần được bảo vệ và nâng tầm. Do đó, chúng ta cần một chiến lược thương hiệu quốc gia bài bản, giống như cách Hàn Quốc hay Nhật Bản đã làm với nông sản của họ,” ông phân tích
Ngoài ra, ông Kris đề xuất Nhà nước cần đồng hành cùng doanh nghiệp trong việc xúc tiến thương mại, quảng bá hình ảnh nông sản Việt trên các kênh truyền thông quốc tế, và đặc biệt là hỗ trợ tiếp cận thị trường qua nền tảng số. “Đây không chỉ là câu chuyện xuất khẩu vài container trái cây, mà là xây dựng hình ảnh Việt Nam như một nguồn cung ứng uy tín, chất lượng trên thị trường toàn cầu” ông Kris nhấn mạnh.
Theo TS. Đinh Thế Hiển, hiện nhiều doanh nghiệp Việt đã bắt đầu chú trọng xây dựng câu chuyện thương hiệu và nâng cao chất lượng, nhưng vẫn thiếu thương hiệu mạnh ở phân khúc trung - cao cấp, marketing quốc tế còn yếu và định vị trên không gian số chưa được đầu tư bài bản. Do đó thương hiệu Việt hiện ở “vùng giữa” so với hàng Trung Quốc giá rẻ và các thương hiệu trung - cao cấp khu vực.
Để phát triển thương hiệu bền vững, doanh nghiệp Việt cần nâng cấp công cụ số; đồng thời chuyển dịch sang mô hình thương hiệu số có khả năng cạnh tranh trong khu vực. Một trong những giải pháp trọng tâm là ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong hành trình khách hàng. Chiến lược này giúp tăng tỷ lệ chuyển đổi, giữ chân khách hàng, tối ưu chi phí, đồng thời biến dữ liệu khách hàng thành trải nghiệm cá nhân hóa, đưa thương hiệu trở nên gần gũi, thông minh và đáng tin cậy hơn trong mắt người tiêu dùng.