Vậy nên lần đầu đặt chân lên đất Hà Thành tham dự hội nghị các nhà văn trẻ, em thấy mình ngác ngơ như vịt lạc giữa chợ.
“Lúa ơi là lúa” - thấy em tần ngần lạ lẫm, một anh trong Ban Tổ chức hội nghị đến gần hỏi “Em ở đơn vị nào?”. Nghe em trả lời, anh vui mừng ra mặt. “Miền Tây à?”. “Dạ thưa em ở miền Tây! Anh có quen ai trong đó không?”. “Có! Có! Xong việc anh em mình nói chuyện miền Tây nhé!”.
Nhìn anh rạng rỡ như em vừa chạm đến một miền nhớ mang tên ký ức ùa về trong anh. Xong việc, anh tìm gặp em hỏi đủ chuyện: “Em gái miền Tây! Lần đầu ra Thủ đô em thấy thế nào? Đi đường xa có vất vả lắm không?”. “Từ đơn vị em lên đến ga có khi mất cả ngày ấy chứ. Rồi vật vạ chờ đến giờ lên tàu. 42 tiếng sình sịch nghe buồn chán nhưng trải nghiệm vô cùng thú vị”…
Lúc khác anh lại: “Này em gái miền Tây! Anh có một kỷ niệm không giống như “Chuyện tình dưới đáy ba lô” nhưng cũng sâu sắc, cảm động lắm, thư thả anh kể em nghe”. Anh nhiệt tình, vui vẻ làm cô em gái miền Tây bớt chút ngỡ ngàng giữa bao người xa lạ. Lần đầu quen biết mà như thể gặp người quen thân từ dạo nào.
Nghe em nói chuyện, được em gợi nhắc những vùng quê gian khó, anh cứ xuýt xoa ừ, ừ anh có biết chỗ ấy, chỗ ấy và bây giờ nó như thế nào em nhỉ? Có đến mấy mươi năm rồi anh không có dịp trở lại. May quá gặp được em!
Nỗi nhớ không thứ tự trong anh vẫn còn đó dọc ngang sông ngòi, kinh rạch chằng chịt, cầu ván, cầu khỉ, cầu tre bắc ngang qua nối đôi bờ thương nhớ. Tắc ráng chạy dậy sóng, tàu ghe, xuồng ba lá bơi xuôi ngược là phương tiện giao thông phổ biến lúc bấy giờ. Đường bộ còn lắm gập ghềnh. Mùa mưa sình lầy, người dân đi bộ từ nhà đến chợ năm bảy cây số là chuyện thường. Nước nổi về ngập hết đường đi, xắn quần bì bõm lội. Mùa phù sa, cá tôm từ thượng nguồn kéo về. Trái cây thì khỏi chê. Bà con thương bộ đội miền Bắc xa nhà nên ai cũng đon đả đón chào, nhà nào không cơm cá cũng hái trái cây trong vườn mời ăn lấy thảo.
Nói đến người miền Tây là nói sự thiệt thà, chân chất, bộc trực, thẳng thắn, đôn hậu niềm nở dễ thương. Lời ăn, tiếng nói không có vẻ khách sáo, làm màu, kiểu như: Ủa! Tui có gì lạ lắm sao mà nhìn dữ vậy? Có gì đâu thấy bạn ngồ ngộ thì nhìn vậy thôi. Xời ơi! Chuyện có vậy mà mầy làm tao hết hồn hết vía. Ăn gì mà hết trơn hết trọi không chừa người ta nữa. Nói ít thôi, nói nhiều nghe lúa lắm rồi đó. Ừa! Tui lúa vậy đó mà có người mê đòi dzìa miền Tây cưới vợ kìa! Thiệt hông đó Tám? Thiệt mà! Hổng tin dzìa đi biết liền hà. “Dạ thưa em ở miền Tây/ Nắng mưa cực lắm anh Hai có dzìa?/ Nhà em làm ruộng, tát đìa/ Có tôm cua cá, sông chia đôi bờ/ Thương em thì hãy ráng chờ/ Đôi ba năm nữa hết khờ (em sẽ) theo anh!”
Đó! Chỉ mới nghe nhiêu đó thôi là thấy thương thấy mến rồi. Sao mà thiệt thà, chân chất quá đi thôi. Nhắc chuyện miền Tây khiến anh bồi hồi xúc động. Những gì thuộc miền ký ức thì sâu đậm lắm. Nó nằm trong tận tâm can, dằng dai mãnh liệt, khiến người mang nó đau đáu tìm về. Anh nói anh ở miền Tây không lâu, thời gian chủ yếu ở mặt trận đối mặt với nguy hiểm, cái chết rình rập xung quanh. Nhưng tình người miền Tây ấm áp, đậm đà. Mỗi khi có dịp tiếp xúc với bà con thấy rất thân tình, họ xem mình như con em trong nhà vậy.
Hội nghị sắp kết thúc. Thiệt may sao đêm ấy vãn việc. Giữa lòng Hà Nội, anh kể em nghe câu chuyện cảm động trong đời quân ngũ của anh.
Hồi đó, gửi lại giấc mơ giảng đường đại học, anh viết đơn xin nhập ngũ, vào đơn vị mới biết sẽ được chi viện cho chiến trường B. Đơn vị anh toàn lính trẻ, cũng nhiều người như anh, mới buông cây bút cầm cây súng. “Chúng ta vừa bước ra khỏi cuộc chiến chưa bao lâu lại phải đương đầu với một cuộc chiến khác. Em còn nhớ câu thơ Dù rằng đời ta thích hoa hồng/ Kẻ thù buộc ta ôm cây súng” của Diệp Minh Tuyền không em?”.
Lắng lại một chút ngập ngừng, rồi anh bắt đầu kể câu chuyện về cô gái miền Tây anh được gặp trên đường hồi đêm khi đơn vị băng đồng giữa mùa nước nổi. Cô gái ấy đã để lại nhiều xúc cảm trong anh.
Tấm dù cô gái ấy giữ rịt bên mình là kỷ vật của ba. Ba cô hy sinh khi cô còn nhỏ. Sau ngày ba mất, mấy chú trong đơn vị trao lại kỷ vật cho gia đình là tấmkhăn dù. Cô nói mỗi lần cô khóc là má lấy tấm khăn dù quấn cho là hết khóc liền luôn. Sau này lớn lên, gặp các anh bộ đội là cô quí lắm, cứ như tháy lại hình bóng ba mình vậy.

Những người lính của Tỉnh đội Cần Thơ trong niềm vui giải phóng Cần Thơ vào ngày 30/4/1975 Ảnh: Trần Giác.
“Nhưng đêm đó anh sốt. Cô lấy tấm dù đắp cho anh. Rồi nói anh cứ giữ mà dùng cho đỡ bệnh, má và nội nếu biết cô làm vậy cũng không trách cô, người dân miền Tây thương quý bộ đội nên chẳng tiếc gì”.
Giọng anh chùng lại, cảm xúc bị dồn nén bởi câu chuyện nghĩa tình của người dân miền châu thổ dành cho bộ đội dù chỉ gặp vội vàng rồi chia tay, lại trớ trêu gặp trong khi anh đổ bệnh, lại nhằm đêm tối nên không tỏ mặt. Anh cũng nói thêm có lần vào miền Tây công tác, anh có ý định đi tìm cô gái ấy nhưng thời gian ít, công việc gấp nên chưa thực hiện được ý định đó của mình. Giờ băn khoăn mãi.
Nghe anh trải lòng, đó không phải là tình yêu đầu đời, anh chưa rung động, chỉ cảm mến, nhưng suốt đời anh không quên nghĩa cử cao đẹp của cô gái khi trao cho anh kỷ vật của cha mình.
- Anh đã nghiệm ra mình thắng kẻ thù không chỉ vì mình hơn chúng ở sự kiên cường, bất khuất, ở chủ trương đường lối đúng đắn mà còn vì sức mạnh toàn dân, nhân dân ta có lòng nghĩa nhân trong sáng quá. Sự nhân hậu ấy đã khiến những người lính như anh không ngại hiểm nguy, quyết tâm bảo vệ cuộc sống bình yên của quê hương, đất nước mình.
Anh đâu biết mỗi lời anh nói em như chết điếng trong người. Đúng là trái đất tròn có duyên sẽ gặp, có nợ phải tìm. Em gặp lại anh không phải duyên tơ tóc, nợ ba sinh mà là tình quân dân bền chặt tự bao đời, đã gieo nhân sẽ có ngày nhận quả. Em gặp lại anh để viết tiếp câu chuyện về sự đôn hậu của người miền Tây quê em. Mấy mươi năm anh chỉ muốn gặp lại người nhường tấm khăn dù kỷ vật của cha mình để nói một lời cảm ơn thì em đã nhận cả một tấm chân tình đó rồi. Sau khi em về lại miền Tây, anh hãy đọc những dòng này nhé. Cô gái năm xưa giờ đã là đồng đội của anh. Âu cũng là cái duyên trời định anh à! Dạ thưa anh! Em là cô gái miền Tây năm ấy!

Em là cô gái miền Tây. Tranh: Minh họa.