Áp dung nguyên tắc 80/20 để giải quyết tận gốc ô nhiễm môi trường
Cục Môi trường cho biết, một trong những công cụ quản lý, giải pháp chính sách về bảo vệ môi trường (BVMT) được áp dụng hiệu quả trong thời gian qua là nguyên tắc Pareto. Nguyên tắc này khẳng định, 20% nguyên nhân thường gây ra 80% kết quả. Bởi thế, ngành môi trường đã tập trung quản lý tốt 20% cơ sở có nguồn thải lớn, nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao nhưng qua đó kiểm soát được tới 80% nguy cơ ô nhiễm môi trường.
Tư duy quản lý môi trường đổi mới, chủ động, khoa học được thể hiện xuyên suốt từ giai đoạn lập quy hoạch, thiết kế dự án đầu tư đến kiểm tra, giám sát. Ảnh: Tùng Đình.
Nhờ ứng dụng các công cụ quản lý hiệu đại, ngành môi trường đã từng bước chuyển từ thế bị động sang chủ động trong việc phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường. Đồng thời, công tác giám sát môi trường được triển khai thường xuyên đối với các dự án sản xuất công nghiệp có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao trong quá trình xây dựng, vận hành thử nghiệm và vận hành thương mại để bảo đảm hoạt động an toàn, đóng góp hiệu quả cho tăng trưởng. Nhiều dự án, cơ sở lớn đã đáp ứng đầy đủ điều kiện môi trường trước khi đi vào vận hành, đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Tư duy quản lý môi trường đổi mới, chủ động, khoa học được thể hiện xuyên suốt từ giai đoạn lập quy hoạch, thiết kế dự án đầu tư đến kiểm tra, giám sát. Nhiều dự án đầu tư đã được rà soát, yêu cầu điều chỉnh, thay đổi công nghệ, bổ sung công trình phòng ngừa và ứng phó sự cố môi trường. Hệ thống quan trắc môi trường được đầu tư đồng bộ, hiện đại từ Trung ương đến địa phương với 135 trạm quan trắc không khí, 145 trạm quan trắc nước mặt tự động và hơn 2.000 trạm của các cơ sở truyền dữ liệu trực tiếp, phục vụ công tác kiểm soát xả thải và cảnh báo sớm ô nhiễm môi trường.
Đánh giá trước nguy cơ các dự án tiềm ẩn ô nhiễm
Để kiểm soát môi trường một cách chủ động, ngành môi trường đã áp dụng các công cụ đánh giá giá chiến lược và đánh giá tác động môi trường. Đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường, xác nhận hoàn thành công trình BVMT, cải tạo, phục hồi môi trường trong khai thác khoáng sản trở thành công cụ quan trọng để kiểm soát môi trường từ đầu nguồn. Các chính sách này tiếp tục được hoàn thiện bởi Luật BVMT năm 2014, Luật BVMT năm 2020 và các văn bản hướng dẫn với nội dung, quy trình, thủ tục thẩm định rõ ràng, minh bạch hơn theo hướng cải cách hành chính.
Từ năm 2017, ngành môi trường đã thiết lập, vận hành hiệu quả, thông suốt đường dây nóng để tiếp nhận thông tin, phản ánh kiến nghị về ô nhiễm môi trường từ Trung ương đến địa phương. Trung bình mỗi năm, đường dây này tiếp nhận và xử lý kịp thời hơn 2.000 tin. Ảnh Trường Giang.
Việc thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường được phân công, phân cấp cho các Bộ, ngành và UBND cấp tỉnh. Nhiều hướng dẫn kỹ thuật chuyên ngành đã được xây dựng và ban hành. Đến nay, có khoảng 60 dự án chiến lược, quy hoạch đã thực hiện đánh giá môi trường chiến lược (theo Luật BVMT năm 2014), trên 100 chiến lược, quy hoạch đã tích hợp đánh giá môi trường chiến lược, giúp định hướng và sàng lọc các nội dung BVMT ngay từ giai đoạn lập quy hoạch (theo Luật BVMT năm 2020); khoảng 15.000 dự án đầu tư đã thực hiện báo cáo đánh giá tác động môi trường trên phạm vi cả nước.
Thông qua công tác đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường, các chiến lược, quy hoạch phát triển đã có sự điều chỉnh các định hướng phát triển, bố trí không gian phát triển và đầu tư phù hợp hơn về môi trường. Qua đó, hầu hết các dự án đầu tư đã được yêu cầu chỉnh sửa, bổ sung các biện pháp giảm thiểu tác động có hại đến môi trường; hàng loạt dự án lớn, có nguy cơ tiềm ẩn đối với môi trường được yêu cầu dừng hoạt động hoặc thay đổi công nghệ như: Dự án mở rộng quy mô nâng công suất phân bón của Công ty TNHH Phú Châu, dự án Cảng Lạch Huyện, dự án thủy điện Đồng Nai 6 và 6A, dự án khai thác quặng sắt Thạch Khê; các dự án khai thác bauxite tại Tây Nguyên; dự án khai thác đất hiếm tại Đông Pao, Lai Châu…
Công tác thanh tra, kiểm tra về BVMT đã trở thành hoạt động thường xuyên, trọng tâm của ngành môi trường, tập trung vào nâng cao chất lượng, hiệu quả, chú trọng thanh tra đột xuất, tập trung vào các cơ sở quy mô lớn, có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao; đã phát hiện, xử phạt nghiêm các đối tượng vi phạm để răn đe và tạo dư luận buộc các cơ sở đang hoạt động sản xuất, kinh doanh phải quan tâm, đầu tư cho môi trường, tuân thủ các quy định pháp luật về BVMT.
Đồng thời, thông qua công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm và tăng cường tiếp nhận, xử lý phản ánh của người dân về ô nhiễm môi trường, ý thức chấp hành các quy định pháp luật về BVMT của các doanh nghiệp, tổ chức dần chuyển từ đối phó sang tự giác chấp hành, phát huy vai trò của người dân trong công tác BVMT.
Từ năm 2017, ngành môi trường đã thiết lập, vận hành hiệu quả, thông suốt đường dây nóng để tiếp nhận thông tin, phản ánh kiến nghị về ô nhiễm môi trường từ Trung ương đến địa phương. Trung bình mỗi năm, đường dây này tiếp nhận và xử lý kịp thời hơn 2.000 tin.
Đến tháng 4/2025, 299/315 khu công nghiệp (94,9%) đã có hệ thống xử lý nước thải tập trung, tăng 18,6% so với năm 2016; 100% trong số đó lắp đặt hệ thống quan trắc tự động truyền dữ liệu về cơ quan quản lý. Tỷ lệ cụm công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tăng từ 8,9% (năm 2016) lên 31,5% (năm 2024).

























