| Hotline: 0983.970.780

ACMECS và bài toán phát triển xanh trong dòng chảy Mekong

Thứ Sáu 07/11/2025 , 18:21 (GMT+7)

Với đà phát triển, áp lực môi trường ngày càng nặng nề, đặc biệt là ô nhiễm nước và rác thải nhựa không còn dừng ở biên giới hành chính của từng quốc gia.

Khi tăng trưởng và môi trường cùng trên “dòng chảy”

Tại hội thảo Thúc đẩy giải pháp phòng ngừa và giảm thiểu các vấn đề môi trường của các quốc gia trong Chiến lược hợp tác Kinh tế Ayeyawady - Chao Phraya - Mekong (ACMECS)” sáng 7/11 tại Hà Nội, giới chuyên gia và các viện nghiên cứu trong khu vực đã cùng chỉ ra một nghịch lý: tăng trưởng kinh tế nhanh trong tiểu vùng Mekong đang khiến chính những dòng sông nuôi sống hàng chục triệu người trở nên mong manh hơn bao giờ hết.

Hội thảo 'Thúc đẩy giải pháp phòng ngừa và giảm thiểu các vấn đề môi trường của các quốc gia trong Chiến lược hợp tác Kinh tế Ayeyawady - Chao Phraya - Mekong (ACMECS)' sáng 7/11 tại Hà Nội. Ảnh: Linh Linh.

Hội thảo Thúc đẩy giải pháp phòng ngừa và giảm thiểu các vấn đề môi trường của các quốc gia trong Chiến lược hợp tác Kinh tế Ayeyawady - Chao Phraya - Mekong (ACMECS)” sáng 7/11 tại Hà Nội. Ảnh: Linh Linh.

Phát biểu tại hội thảo, ông Nguyễn Trung Thắng, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và Môi trường, nhấn mạnh ACMECS, gồm Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam, không chỉ là một không gian kinh tế, mà là một hệ sinh thái phát triển liên kết bởi nước. Các dòng sông lớn như Ayeyawady, Chao Phraya và Mekong tạo nên trục sinh tồn cho cả vùng, vừa cung cấp năng lượng, thực phẩm, vừa nuôi dưỡng hệ thống nông nghiệp và công nghiệp đang tăng trưởng nhanh. Nhưng cùng với đà phát triển, áp lực môi trường ngày càng nặng nề, đặc biệt là ô nhiễm nước và rác thải nhựa, hai vấn đề không còn dừng ở biên giới hành chính của từng quốc gia.

Theo báo cáo của Viện Mekong Thái Lan, trong vòng một thập kỷ, số lượng đập thủy điện trên sông Mekong và các phụ lưu đã tăng từ khoảng 60 lên hơn 150 công trình, làm thay đổi mạnh chế độ thủy văn, giảm lưu lượng mùa khô, khiến lượng phù sa đổ về ĐBSCL sụt giảm tới 90%. Phù sa bị giữ lại không chỉ làm mất đi lớp “phân bón tự nhiên” của vùng hạ lưu, mà còn thúc đẩy xói mòn, sụt lún và giảm khả năng sinh sản của hệ sinh thái.

Tăng trưởng nông nghiệp, đô thị hóa và khai thác khoáng sản mang lại lợi ích kinh tế ngắn hạn, song cũng tạo ra lượng nước thải, kim loại nặng và chất ô nhiễm mới nổi vượt khả năng kiểm soát của các hệ thống xử lý hiện có. Trong khi đó, các mạng lưới quan trắc môi trường vẫn rời rạc, thiếu dữ liệu đồng bộ giữa các quốc gia. Càng phát triển, tiểu vùng Mekong càng phải đối mặt với câu hỏi hóc búa: làm sao để “đánh đổi ít hơn” khi vừa cần điện, vừa cần cá, vừa cần đất, vừa cần nước.

Đại diện Viện Mekong Thái Lan, bà Kademanee Suthum phân tích, ô nhiễm nhựa đang trở thành một “khủng hoảng âm thầm” khác. Ước tính riêng sông Mekong đã thải ra biển từ 22.800 đến 59.900 tấn nhựa mỗi năm, đưa các nước ACMECS vào nhóm gây ô nhiễm nhựa qua sông lớn nhất thế giới. Bà nhấn mạnh, rác thải nhựa ở khu vực này có tính “chuỗi cung ứng” khi Thái Lan và Việt Nam là trung tâm nhập khẩu và tái chế, trong khi Campuchia, Lào, Myanmar lại là “điểm trung chuyển” và bãi đổ thải không chính thức. Khi các dòng chảy rác và hàng hóa giao nhau, ranh giới giữa phát triển và ô nhiễm cũng trở nên mong manh.

 Ông Nguyễn Trung Thắng, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và Môi trường. Ảnh: Linh Linh.

 Ông Nguyễn Trung Thắng, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và Môi trường. Ảnh: Linh Linh.

Không chỉ đe dọa sinh vật thủy sinh và tài nguyên biển, nhựa còn xâm nhập chuỗi thực phẩm và ảnh hưởng sức khỏe cộng đồng. “Mỗi biến động ở một phần của dòng sông đều tác động đến toàn lưu vực”, bà Guohua Liu, Viện Mekong Thái Lan, cảnh báo, đồng thời kêu gọi sự hợp tác chặt chẽ hơn giữa chính phủ, cộng đồng, khu vực tư nhân và các tổ chức quốc tế để “bảo vệ dòng sông chung và tương lai chung của khu vực”.

Cần một “ngôn ngữ chung” cho hành động

Tại hội thảo không nằm ở những cảnh báo, các nhà khoa học đã nêu các đề xuất nhằm cụ thể hóa hướng đi, trong đó cho rằng ACMECS cần trở thành cơ chế điều phối thực chất về môi trường, thay vì chỉ là khung hợp tác kinh tế.

Theo bà Nguyễn Thị Ngọc Ánh, Viện Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và Môi trường, các quốc gia trong ACMECS đã đạt tiến bộ đáng kể về chính sách, ban hành luật, nghị định và chương trình giảm rác thải nhựa, thúc đẩy phân loại tại nguồn, áp dụng trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) và hướng đến kinh tế tuần hoàn. Song, các biện pháp hiện nay vẫn thiên về đơn lẻ, thiếu cơ chế liên ngành và chia sẻ thông tin xuyên biên giới. “Một dòng sông không thể được bảo vệ nếu mỗi quốc gia chỉ nhìn phần nước chảy qua lãnh thổ của mình”, bà nói.

Bà Ánh cho rằng, điều ACMECS cần lúc này là chuyển từ cam kết sang thể chế. Ở cấp quốc gia, mỗi nước phải đầu tư mạnh vào hệ thống quan trắc, dữ liệu nước và nhựa, coi đây là “nền hạ tầng của hạ tầng”. Ở cấp vùng, ACMECS có thể đóng vai trò cầu nối khoa học - chính trị - tài chính: phối hợp với Ủy hội sông Mekong (MRC) và các khuôn khổ hiện có như Hợp tác Lan Thương – Mekong (LMC), Tiểu vùng Mekong mở rộng (GMS), đồng thời mở rộng Quỹ Phát triển ACMECS thành cơ chế đầu tư xanh và lam, hỗ trợ các dự án hạ tầng thân thiện môi trường.

Bà Guohua Liu, đại diện Viện Mekong Thái Lan. Ảnh: Linh Linh.

Bà Guohua Liu, đại diện Viện Mekong Thái Lan. Ảnh: Linh Linh.

Đối với rác thải nhựa, cần sớm hình thành Nhóm công tác khu vực về nhựa và kinh tế tuần hoàn, xây dựng bộ khung giám sát xuyên biên giới, thống nhất chuẩn dữ liệu và tiêu chí đầu tư, đồng thời thúc đẩy hài hòa chính sách thuế, quy định cấm nhựa dùng một lần và lộ trình giảm rò rỉ nhựa. ACMECS, theo đó, có thể trở thành nền tảng hợp tác kinh tế tuần hoàn Mekong, nơi thương mại, đầu tư và môi trường được tích hợp vào cùng một hướng phát triển.

Từ góc nhìn quốc tế, ACMECS có lợi thế hiếm có khi đây là khu vực nằm ở trung tâm các hành lang kinh tế Đông - Tây và Nam - Bắc, kết nối trực tiếp với các nền kinh tế lớn của châu Á. Chính vì vậy, khả năng lan tỏa của các sáng kiến môi trường xuyên biên giới ở ACMECS có thể tạo hiệu ứng khu vực, thậm chí toàn cầu.

Theo các chuyên gia Viện Mekong, “không có giải pháp hoàn hảo, chỉ có những sự đánh đổi cần quản lý thông minh”. Lợi ích từ thủy điện cần được cân đối với an ninh lương thực và sinh kế cộng đồng; tăng trưởng công nghiệp cần đi cùng khả năng tái chế và xử lý chất thải; phát triển quốc gia phải gắn với ổn định khu vực. Khi chính sách và đầu tư cùng hướng về mục tiêu chung, thách thức nước và nhựa có thể trở thành chất xúc tác cho hợp tác và sáng tạo.

Xem thêm
Chợ Đồng Xuân tiên phong với mô hình 'Chợ không rác thải'

Mô hình 'Chợ không rác thải' tại chợ Đồng Xuân giúp nâng cao chất lượng vệ sinh môi trường, thay đổi thói quen tiêu dùng và kinh doanh của tiểu thương.

Đồng Nai yêu cầu các địa phương thanh toán chi phí xử lý rác

UBND tỉnh Đồng Nai vừa có Công văn số 8240/UBND-KTNS về thanh toán chi phí xử lý rác thải sinh hoạt của các phường, xã tại Khu xử lý chất thải Quang Trung.

Chủ động thích ứng biến đổi khí hậu, hướng tới phát thải ròng bằng 0

Việt Nam chủ động thích ứng biến đổi khí hậu, hoàn thiện thể chế, đổi mới sáng tạo và hợp tác quốc tế, hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.

Cơ sở dữ liệu là động lực chiến lược cho ngành nông nghiệp và môi trường

Cơ sở dữ liệu đang trở thành nguồn 'năng lượng xanh' cho ngành nông nghiệp và môi trường, thúc đẩy quản trị thông minh, chuyển đổi số và phát triển bền vững.

Hơn 640 tỷ đồng khắc phục hậu quả thiên tai ở Thanh Hóa

Thanh Hóa chi hơn 640 tỷ đồng xây mới các khu tái định cư, xử lý sạt lở các tuyến giao thông trọng yếu, công trình đê điều và hỗ trợ cho ngành giáo dục.