| Hotline: 0983.970.780

80 năm quản lý đất đai [Bài 1]: Đổi mới chính sách cho tam nông

Thứ Năm 28/08/2025 , 13:43 (GMT+7)

80 năm qua chính sách đất đai đối với nông nghiệp, nông dân, nông thôn luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, từng bước hoàn thiện, trở thành trụ cột trong phát triển KT-XH.

LTS: Từ cải cách ruộng đất lịch sử những năm đầu lập nước, đến những bước tiến trong hiện đại hóa quản lý bằng pháp luật và công nghệ số, ngành đất đai đã đồng hành cùng chặng đường 80 năm phát triển đất nước. Báo Nông nghiệp và Môi trường đăng tải loạt bài “80 năm quản lý đất đai”, tái hiện các dấu mốc chính sách quan trọng, khẳng định đất đai là nền tảng cho nông nghiệp, nông thôn và sự phát triển bền vững của quốc gia.

Cải cách ruộng đất - bước ngoặt lịch sử

TS. Nguyễn Đình Bồng, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Đất Việt Nam, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Địa chính cho biết, cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đã mở ra kỷ nguyên mới độc lập, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, đồng thời đặt nền móng thiết lập hệ thống chính sách, pháp luật đất đai của Nhà nước dân chủ nhân dân. Từ đó đến nay, chính sách đất đai đối với nông dân, nông thôn, nông nghiệp luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, từng bước hoàn thiện, trở thành trụ cột trong phát triển kinh tế - xã hội.

TS. Nguyễn Đình Bồng cho rằng, 80 năm qua chính sách đất đai của Đảng và Nhà nước luôn gắn bó chặt chẽ với vận mệnh của nông dân, nông thôn, nông nghiệp. Ảnh: Quang Vinh.

TS. Nguyễn Đình Bồng cho rằng, 80 năm qua chính sách đất đai của Đảng và Nhà nước luôn gắn bó chặt chẽ với vận mệnh của nông dân, nông thôn, nông nghiệp. Ảnh: Quang Vinh.

Ngay sau ngày lập nước, Quốc hội khóa I đã ban hành Hiến pháp 1946, tiếp đó là Luật Thuế trực thu (1949), Luật Cải cách ruộng đất (1953). Chủ tịch nước ký hàng loạt sắc lệnh quan trọng: Sắc lệnh số 79/SL ngày 29/5/1946; Sắc lệnh số 78/SL ngày 14/7/1949 về giảm địa tô; Sắc lệnh số 87/SL ngày 5/3/1952 ban hành Điều lệ tạm thời về sử dụng công điền, công thổ… Chủ trương nhất quán là tịch thu ruộng đất của thực dân, địa chủ phản động để chia cho nông dân nghèo, đồng thời hướng dẫn cách sử dụng đất hợp lý.

Nhờ những chính sách đó, đến năm 1953, cơ cấu sở hữu đất đai ở nông thôn miền Bắc đã có sự thay đổi rõ rệt. Giai cấp nông dân lao động chiếm 92,5% dân số nhưng đã nắm giữ 70,7% diện tích đất canh tác. Tỷ lệ hộ cố nông giảm từ 20,8% (1945) xuống còn 14,4%; hộ địa chủ giảm từ 1.985 hộ (3,3%) còn 1.311 hộ (1,8%); hộ phú nông giảm từ 1.278 hộ (2,2%) xuống 854 hộ (1,2%). Đây là bước ngoặt lịch sử, góp phần xóa bỏ tàn dư phong kiến, khẳng định vai trò trung tâm của nông dân trong sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc.

So với cải cách ruộng đất ở Nhật Bản (1946) hay Đài Loan (1950) - nơi Nhà nước mua đất của địa chủ rồi bán lại cho nông dân trả dần trong 10 năm, thì ở Việt Nam, đất đai được giao miễn phí cho nông dân từ quỹ đất công và đất tịch thu. Đây là điểm tiến bộ, phù hợp với hoàn cảnh cách mạng nước ta.

Giai đoạn 1955 – 1975, chính sách đất đai ở miền Bắc tập trung vào ba nhiệm vụ lớn: hoàn thành cải cách ruộng đất; thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh hợp tác hóa nông nghiệp. Pháp luật đất đai giai đoạn này đã thể chế hóa chính sách đất đai của Đảng về chế độ sở hữu và quản lý đất đai, khuyến khích nông dân sử dụng đất hiệu quả, hợp lý, cơ chế phân phối lợi ích trong hợp tác xã, giữa hợp tác xã với nhà nước thông qua thuế đất.

Đổi mới hành trình khẳng định vai trò nông dân

Đến năm 1975, miền Bắc có 17.000 hợp tác xã, với hơn 3,38 triệu hộ xã viên (chiếm 97,45% hộ nông dân), trong đó 90,1% là hợp tác xã bậc cao. Đây là mô hình quản lý đất đai tập trung, góp phần quan trọng ổn định nông thôn, phát triển nông nghiệp, bảo đảm hậu phương vững chắc cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Giai đoạn 1975 - 1985, cùng với cải tạo nông nghiệp ở miền Nam, Đảng ta chú trọng đổi mới quản lý nông nghiệp. Chỉ thị 100-CT/TW (1981) về khoán sản phẩm đã mở rộng quyền sử dụng đất, trao cho xã viên sự gắn bó thiết thực hơn với lợi ích sản xuất. Đây là dấu mốc quan trọng, tạo nền tảng cho Đổi mới 1986, tạo cho xã viên được quyền sử dụng đất trong khuôn khổ rộng rãi hơn, thiết thực và gắn bó hơn với lợi ích của người lao động, một mốc son có ý nghĩa về chính sách ruộng đất nông nghiệp thời kỳ này.

Luật Đất đai 1987 - một trong những đạo luật đầu tiên sau Đổi mới đã đưa việc quản lý đất đai vào khuôn khổ pháp luật, tạo nề nếp đồng bộ, thống nhất và hoàn chỉnh về chế độ quản lý và chế độ sử dụng đất đai, đánh dấu sự trưởng thành của quản lý Nhà nước về đất đai theo pháp luật theo nguyên tắc Nhà nước pháp quyền.

Tiếp đó, Luật Đất đai 1993 khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý, nhưng hộ gia đình, cá nhân được giao đất ổn định lâu dài, có quyền chuyển nhượng, chuyển đổi, cho thuê, thừa kế, thế chấp… Chính sách này đã biến quyền sử dụng đất thành nguồn lực tài chính, thúc đẩy sản xuất, đưa Việt Nam từ chỗ thiếu lương thực trở thành quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, với sản lượng 4–5 triệu tấn/năm.

Luật Đất đai 2003 tiếp tục hoàn thiện 4 công cụ quản lý đất đai: pháp luật, quy hoạch, tài chính, hành chính. Với các quy định cho hộ gia đình, cá nhân được thực hiện quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, thế chấp, tặng cho, bảo lãnh và góp vốn bằng quyền sử dụng đất (9 quyền); tổ chức kinh tế trong nước được Nhà nước giao đất cho thuê đất hoặc tổ chức kinh tế nước ngoài được Nhà nước cho thuê đất được thực hiện quyền chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thế chấp, bảo lãnh và góp vốn bằng quyền sử dụng đất. 

Nhờ đó, chính sách, pháp luật  đất đai đã từng bước phát huy được nguồn lực đất đai. Giá trị quyền sử dụng đất đai đã trở thành nguồn lực tài chính để đầu tư phát triển sản xuất. Việc thừa nhận về mặt pháp lý các giao dịch về đất đai góp phần hình thành và phát triển thị trường bất động sản, góp phần tạo lập đồng bộ cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Luật Đất đai 2013 thể chế hóa tinh thần Nghị quyết Đại hội XI, khẳng định rõ vai trò đại diện chủ sở hữu đất đai của Nhà nước, đồng thời mở rộng quyền cho người sử dụng đất, bổ sung chính sách đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số. Nhờ chính sách đất đai đổi mới, nông nghiệp, nông thôn và đời sống nông dân đạt nhiều thành tựu quan trọng.

Theo thống kê năm 2020, tổng diện tích đất đã giao cho các đối tượng sử dụng là 26,84 triệu ha, chiếm 81% diện tích tự nhiên. Đất sản xuất nông nghiệp đạt 11,74 triệu ha, trong đó hộ gia đình, cá nhân sử dụng 10,57 triệu ha (90%).

Nông nghiệp duy trì tốc độ tăng trưởng khoảng 3,5%/năm. Kim ngạch xuất khẩu nông sản tăng mạnh, từ 4,2 tỷ USD năm 2000 lên 40,5 tỷ USD năm 2018 và 41,3 tỷ USD năm 2020, với thặng dư thương mại 9,5–10 tỷ USD. Việt Nam từng bước trở thành một trong những nhà cung cấp nông sản lớn của thế giới, với các sản phẩm chủ lực như gạo, cà phê, cao su, hồ tiêu, điều, thủy sản.

Chương trình xây dựng nông thôn mới (2010 – 2020) đã hoàn thành vượt mục tiêu. Đến tháng 7/2021, cả nước có 64,6% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, 194 đơn vị cấp huyện (29%) thuộc 51 tỉnh, thành phố đạt chuẩn; 12 tỉnh, thành phố có 100% số xã đạt chuẩn, trong đó 4 tỉnh được công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới. Thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn năm 2020 đạt 41,7 triệu đồng, gấp 3,25 lần so với năm 2010; tỷ lệ hộ nghèo đa chiều còn 7,1%, giảm 4,7% so với năm 2016.

Tương lai, quản lý và sử dụng đất đai phải hướng tới nâng cao hiệu quả, giá trị gia tăng; thúc đẩy tích tụ, tập trung ruộng đất; bảo vệ đất đai bền vững trước nguy cơ thoái hóa; đồng thời tạo động lực mới cho phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp xanh, tuần hoàn, thân thiện môi trường. Ảnh: Khánh Linh.

Tương lai, quản lý và sử dụng đất đai phải hướng tới nâng cao hiệu quả, giá trị gia tăng; thúc đẩy tích tụ, tập trung ruộng đất; bảo vệ đất đai bền vững trước nguy cơ thoái hóa; đồng thời tạo động lực mới cho phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp xanh, tuần hoàn, thân thiện môi trường. Ảnh: Khánh Linh.

Luật Đất đai 2024 tiến tới hiện đại hóa nền nông nghiệp

Luật Đất đai 2024 được Quốc hội khóa XV thông qua ngày 18/1/2024 có hiệu lực 1/8/2024, được xây dựng công phu, thể chế hóa quan điểm Nghị quyết Đại hội XIII và Nghị quyết 18-NQ/TW với điểm đổi mới đáng chú ý trong nông nghiệp.

Cụ thể, hạn mức nhận chuyển nhượng đất nông nghiệp: hộ gia đình, cá nhân có thể sử dụng tối đa 45 ha đất trồng cây hàng năm, 150 ha đất trồng cây lâu năm ở đồng bằng, 450 ha ở trung du miền núi; 450 ha đất rừng phòng hộ, rừng sản xuất. Quy định này đủ lớn đáp ứng nhu cầu sử dụng đất theo hướng sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung, quy mô lớn, hiệu quả.

Luật cũng quy định cơ chế tập trung, tích tụ đất nông nghiệp. Quy định này sẽ tạo hành lang pháp lý góp phần điều chỉnh đất đai theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thức đẩy tích tụ tập trung đất đai theo hướng sản xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn, tập trung, hiệu quả

Ngoài ra luật cũng có quy định quản lý một số loại đất như: đất công ty nông, lâm nghiệp; đất trồng lúa; đất chăn nuôi tập trung; đất khu nuôi trồng, chế biến nông sản, thủy sản…Những điểm mới này mở ra cơ hội lớn cho phát triển nông nghiệp hiện đại, nâng cao giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của nông sản Việt Nam.

Thách thức và yêu cầu mới

Tuy nhiên, bên cạnh thành tựu, vẫn còn nhiều thách thức. Diện tích đất bình quân đầu người thấp: đất tự nhiên 0,344 ha/người, đất nông nghiệp 0,291 ha/người, đất sản xuất nông nghiệp chỉ 0,122 ha/người; 11,8 triệu ha đất bị thoái hóa (35,74% diện tích tự nhiên), trong đó 1,2 triệu ha thoái hóa nặng.

Bên cạnh đó, quy mô đất sản xuất nhỏ lẻ bình quân 0,676 ha/hộ nông thôn, 1,25 ha/hộ nông nghiệp, thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực.

Ngoài ra, doanh nghiệp nông nghiệp còn ít (chỉ 10.065 đơn vị, chiếm 1,3% tổng số doanh nghiệp), hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, hiệu suất sinh lời chỉ 2,7%.

Những vấn đề trên đòi hỏi chính sách đất đai phải tiếp tục đổi mới, đồng bộ với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Theo TS. Nguyễn Đình Bồng, trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0, Đảng đã ban hành Nghị quyết 57-NQ/TW (2024) về đột phá khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, cùng Nghị quyết 18-NQ/TW (2017) về tinh gọn bộ máy. Đây là cơ sở quan trọng để hiện đại hóa quản lý đất đai, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp.

Tương lai, quản lý và sử dụng đất đai phải hướng tới nâng cao hiệu quả, giá trị gia tăng; thúc đẩy tích tụ, tập trung ruộng đất; bảo vệ đất đai bền vững trước nguy cơ thoái hóa; đồng thời tạo động lực mới cho phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp xanh, tuần hoàn, thân thiện môi trường.

Có thể thấy, 80 năm qua, chính sách đất đai của Đảng và Nhà nước luôn gắn bó chặt chẽ với vận mệnh của nông dân, nông thôn, nông nghiệp. Những thành tựu đạt được đã chứng minh đất đai không chỉ là tư liệu sản xuất đặc biệt mà còn là nguồn lực quan trọng để phát triển bền vững đất nước.

Trong giai đoạn mới, việc hoàn thiện chính sách, pháp luật về đất đai, nhất là sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Đất đai tới đây sẽ tiếp tục mở đường cho nông nghiệp Việt Nam phát triển hiện đại, hội nhập sâu rộng, góp phần nâng cao đời sống nông dân, xây dựng nông thôn giàu đẹp, văn minh, đưa đất nước tiến nhanh trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

(lược ghi)

Xem thêm
Sun Group khởi công dự án khu đô thị hỗn hợp hơn 17.000 tỷ đồng

KHÁNH HÒA Dự án Khu đô thị hỗn hợp Nha Trang quy mô hơn 226 ha, tổng mức đầu tư hơn 17.000 tỷ đồng, với thiết kế độc đáo gồm ba phân khu.

TP.HCM cho phép người nước ngoài mua nhà ở một số dự án

UBND TP.HCM vừa kí văn bản số 1164/UBND – ĐT công bố danh mục 48 dự án nhà ở trên địa bàn cho phép người nước ngoài sở hữu.

Đà Nẵng thu hồi 843ha đất phục vụ dự án đường sắt tốc độ cao

Để thực hiện thu hồi hơn 843ha đất, TP Đà Nẵng cần khoảng 16.600 tỷ đồng để giải phóng mặt bằng, bố trí tái định cư cho dự án đường sắt tốc độ cao.

Giải quyết thủ tục nhận chuyển nhượng, thuê đất ở cấp xã trong 23 ngày

Thủ tục hành chính tổ chức kinh tế nhận chuyển nhượng, thuê, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư tại cấp xã gồm 5 bước.

Bình luận mới nhất