Định hướng này được nêu trong Báo cáo số 768/BC-BTC của Bộ Tài chính, cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo quốc gia về kinh tế tập thể, gửi Thủ tướng và Phó Thủ tướng Nguyễn Chí Dũng, Trưởng Ban Chỉ đạo.
Khác với cách tiếp cận những năm trước, định hướng mới không đặt trọng tâm vào việc mở rộng nhanh số lượng hợp tác xã. Trọng tâm chuyển sang vấn đề cốt lõi hơn: hợp tác xã tạo ra bao nhiêu giá trị kinh tế, có đứng vững được trên thị trường hay không, và đóng góp thực chất ra sao cho thu nhập, việc làm của người dân.
Hiệu quả được nhìn nhận thông qua doanh thu, lợi nhuận, khả năng ký kết hợp đồng, tham gia chuỗi giá trị và mức độ tự chủ tài chính, thay vì các tiêu chí mang tính hình thức.
Người dân chia sẻ kinh nghiệm trồng chè tại Thái Nguyên. Ảnh: Quang Linh.
Từ trục định hướng này, các nhóm giải pháp được thiết kế theo hướng “đưa hợp tác xã ra thị trường”. Vốn và tín dụng không còn được xem là chính sách hỗ trợ đơn thuần, mà là công cụ sàng lọc năng lực. Thay vì mở rộng ưu đãi đại trà, giai đoạn tới nhấn mạnh yêu cầu minh bạch tài chính, chuẩn hóa phương án sản xuất, kinh doanh, nâng năng lực quản trị để hợp tác xã đủ điều kiện tiếp cận vốn vay.
Liên kết chuỗi được xác định là trục phát triển song hành. Hợp tác xã được kỳ vọng đóng vai trò đầu mối tổ chức lại sản xuất ở nông thôn, kết nối hộ thành viên với doanh nghiệp, thị trường, logistics và tiêu chuẩn chất lượng.
Trong sản xuất nông nghiệp, đây là nền tảng để giảm sản xuất manh mún, nâng giá trị gia tăng và vị thế của người nông dân. Trong công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, hợp tác xã được định hướng tham gia sâu hơn vào các khâu có giá trị cao, thay vì chỉ cung ứng đầu vào hoặc lao động giản đơn.
Định hướng 2026-2030 cũng chấp nhận một thực tế. Khu vực hợp tác xã nhiều khả năng sẽ có sự phân hóa rõ hơn. Những hợp tác xã hoạt động hình thức, phụ thuộc hoàn toàn vào hỗ trợ ngân sách sẽ bị đào thải. Ngược lại, các hợp tác xã làm ăn hiệu quả sẽ có dư địa mở rộng quy mô, thu hút thêm thành viên, lao động và nguồn lực xã hội. Thị trường trở thành thước đo cuối cùng.
Nền tảng cho định hướng này được hình thành từ những chuyển biến trong giai đoạn 2021-2025. Báo cáo của Bộ Tài chính cho thấy, trong bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước nhiều biến động, khu vực kinh tế tập thể vẫn duy trì đà phát triển và có sự cải thiện về chất lượng. Đến hết năm 2025, cả nước có khoảng 35.000 hợp tác xã. Tỷ lệ hợp tác xã hoạt động đúng loại hình đạt trên 78%, cao hơn so với đầu giai đoạn.
Doanh thu bình quân một hợp tác xã năm 2025 ước đạt hơn 4,2 tỷ đồng, tăng trên 30% so với năm 2020. Lợi nhuận bình quân đạt khoảng 210 triệu đồng/năm. Thu nhập của lao động thường xuyên trong hợp tác xã đạt xấp xỉ 6,4 triệu đồng/tháng, tăng rõ so với giai đoạn trước.
Nhiều hợp tác xã nông nghiệp đã tham gia chuỗi giá trị, gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ, OCOP và truy xuất nguồn gốc. Ở lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, số hợp tác xã có doanh thu tăng ổn định, mở rộng thị trường nội địa, từng bước tham gia xuất khẩu.
Tuy nhiên, những hạn chế trong mô hình này vẫn chưa được giải quyết dứt điểm. Phần lớn hợp tác xã có quy mô nhỏ, vốn mỏng, năng lực quản trị chưa đồng đều. Dư nợ tín dụng cho hợp tác xã tăng nhưng số lượng tiếp cận được vốn vẫn thấp so với nhu cầu thực tế. Khoảng cách giữa nhóm hợp tác xã hoạt động hiệu quả và phần còn lại ngày càng rõ.
Chính những kết quả và hạn chế đó tạo nền cho sự điều chỉnh mạnh mẽ trong giai đoạn 2026-2030. Thay vì tiếp tục nuôi dưỡng hợp tác xã bằng chính sách, Nhà nước chuyển sang tạo khung thể chế để hợp tác xã tự đứng trên thị trường. Chỉ khi hợp tác xã sống được bằng doanh thu và hợp đồng, vai trò của kinh tế tập thể trong tổ chức lại sản xuất, ổn định sinh kế và phát triển kinh tế nông thôn mới có thể phát huy bền vững.
















