| Hotline: 0983.970.780

Xây dựng thương hiệu gạo Việt xanh, sẵn sàng đón thị trường carbon

Thứ Năm 13/03/2025 , 22:32 (GMT+7)

Hiệp hội Ngành hàng Lúa gạo Việt Nam (VIETRISA) đặt mục tiêu trong năm 2025 sẽ phát triển nhãn mác cho thương hiệu gạo Việt phát thải thấp, mở đường cho thương hiệu quốc gia.

Trong khuôn khổ Triển lãm Quốc tế AGRITECHNICA ASIA Vietnam 2025, ngày 12/3, Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp Viện Nghiên cứu Lúa gạo Quốc tế (IRRI), Hiệp hội Ngành hàng Lúa gạo Việt Nam (VIETRISA) và Hiệp hội Nông nghiệp Đức (DLG) tổ chức chức hội nghị “Chuỗi giá trị gạo Việt xanh, chất lượng cao và phát thải thấp”.

Tại hội nghị, các chuyên gia công bố những bước tiến mới nhất trong việc thực hiện Đề án “Phát triển bền vững 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030” (Đề án 1 triệu ha lúa) - một sáng kiến chiến lược đã được quốc tế ghi nhận và đánh giá cao.

Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp là sáng kiến chiến lược của Việt Nam được quốc tế ghi nhận và đánh giá cao. Ảnh: Tùng Đinh. 

Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp là sáng kiến chiến lược của Việt Nam được quốc tế ghi nhận và đánh giá cao. Ảnh: Tùng Đinh. 

Xây dựng thương hiệu gạo Việt xanh, phát thải thấp

Theo ông Lê Thanh Tùng - Phó Chủ tịch Thường trực kiêm Tổng Thư ký VIETRISA, Hiệp hội đã đặt mục tiêu vào năm 2025 sẽ phát triển nhãn mác cho thương hiệu gạo Việt xanh, phát thải thấp. Đây sẽ là bước đệm để VIETRISA tiếp tục đồng hành cùng chiến lược xây dựng nhãn hiệu quốc gia công nhận gạo phát thải thấp, có giá trị bán tín chỉ carbon đến năm 2028.

Ông Lê Thanh Tùng giải thích, trong Đề án 1 triệu ha lúa, chúng ta đã nhiều lần nhắc đến khái niệm “gạo giảm phát thải”. Hiện nay, chúng ta đang triển khai thí điểm hệ thống đo lường, báo cáo và thẩm định (MRV), nhưng lộ trình này kéo dài đến năm 2028 mới hoàn thiện các cơ chế chi trả, đo đạc và định giá.

Tuy nhiên, việc xây dựng thương hiệu gạo Việt xanh, phát thải thấp có thể bắt đầu ngay từ bây giờ. Điều quan trọng là doanh nghiệp chứng minh được sản phẩm của mình tuân thủ Quy trình kỹ thuật sản xuất lúa chất lượng cao và phát thải thấp đã được Cục Trồng trọt (nay là Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật) ban hành năm 2024. Điều này có nghĩa khi doanh nghiệp hoặc nông dân tham gia canh tác theo hướng phát thải thấp, nếu tuân thủ đúng quy trình, chắc chắn sẽ tạo hiệu quả.

“Chứng nhận gạo Việt xanh, phát thải thấp sẽ do VIETRISA cấp, đảm bảo tính minh bạch và độ tin cậy. Trong giai đoạn chưa có hệ thống chứng nhận quốc gia về gạo carbon thấp, doanh nghiệp có thể tự công bố thương hiệu gạo xanh và chịu trách nhiệm về công bố của mình”, ông Lê Thanh Tùng nói.

Theo đó, thương hiệu gạo phát thải thấp sẽ được xây dựng theo nhiều cấp độ, trước hết là từ chính các doanh nghiệp. Những doanh nghiệp tham gia vào Đề án 1 triệu ha lúa cần tự khẳng định chất lượng sản phẩm của mình với khách hàng.

Tọa đàm diễn ra trong khuôn khổ hội nghị 'Chuỗi giá trị gạo Việt xanh, chất lượng cao và phát thải thấp'. Ảnh: Quỳnh Chi. 

Tọa đàm diễn ra trong khuôn khổ hội nghị "Chuỗi giá trị gạo Việt xanh, chất lượng cao và phát thải thấp". Ảnh: Quỳnh Chi. 

Hiệu quả kinh tế, lợi ích môi trường

Ông Nguyễn Cao Khải, Giám đốc HTX Nông nghiệp Tiến Thuận (xã Thạnh An, huyện Vĩnh Thạnh, TP Cần Thơ) tự hào chia sẻ, HTX là đơn vị đầu tiên ở Cần Thơ và khu vực ĐBSCL được lựa chọn triển khai mô hình thí điểm của Đề án 1 triệu ha lúa. Mô hình được thực hiện trên diện tích 50ha, với 12 hộ canh tác theo quy trình giảm phát thải và 3 hộ canh tác theo phương pháp truyền thống để đối chứng.

Sau 3 vụ triển khai, kết quả cho thấy năng suất ở mô hình canh tác truyền thống đạt từ 8,2 – 8,4 tấn/ha, trong khi mô hình giảm phát thải đạt từ 8,6 – 9 tấn/ha. “Bà con rất phấn khởi, đặc biệt trong bối cảnh giá lúa giảm nhưng chi phí vật tư lại tăng. Chúng tôi nhìn thấy rõ hiệu quả kinh tế, nhưng quan trọng hơn là được tham gia bảo vệ sức khỏe bản thân, cộng đồng và môi trường”, ông Khải nói.  

Về chi phí sản xuất, trong khi các hộ canh tác theo phương pháp truyền thống phải chi khoảng 23 – 25 triệu đồng/ha cho giống và phân bón thì mô hình giảm phát thải chỉ tiêu tốn khoảng 20 – 21 triệu đồng/ha.

Bà Nguyễn Thị Thu Hương - Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) nhấn mạnh, việc hiểu đúng và đủ về lợi ích của canh tác bền vững sẽ giúp bà con chủ động tham gia và gắn bó lâu dài với mô hình.

Thời điểm khởi động Đề án 1 triệu ha lúa có nhiều thuận lợi, nhất là thị trường lúa khởi sắc, giá lúa tăng cao. Nhưng giá lúa hiện nay đang ở mức thấp, trở lại ngang bằng với giai đoạn trước khi giá tăng. 

Bà Hương khẳng định: “Cần đặt ra câu hỏi liệu sự thay đổi của giá cả có ảnh hưởng đến mức độ sẵn sàng tham gia của nông dân hay không. Do đó, cần có cơ chế hỗ trợ phù hợp để khuyến khích bà con tiếp tục canh tác theo hướng bền vững”.

Tại Viện Lúa ĐBSCL, IRRI phối hợp với các nhà khoa học trong nước nghiên cứu các phương pháp canh tác lúa giảm phát thải. Ảnh: Quỳnh Chi. 

Tại Viện Lúa ĐBSCL, IRRI phối hợp với các nhà khoa học trong nước nghiên cứu các phương pháp canh tác lúa giảm phát thải. Ảnh: Quỳnh Chi. 

Ngoài ra theo bà Hương, liên kết sản xuất lúa gạo vẫn chưa thực sự bền vững. Để mở rộng mô hình ra quy mô lớn hơn, cần có những chính sách và giải pháp cụ thể nhằm tăng cường sự kết nối giữa nông dân, doanh nghiệp và thị trường. 

"Ngành lúa gạo Việt Nam cần hướng đến việc tạo ra những sản phẩm có trách nhiệm – không chỉ với người tiêu dùng mà còn với chính tương lai của ngành. Khi xây dựng được thương hiệu gạo phát thải thấp vững chắc, Việt Nam có thể mở ra thị trường riêng, gia tăng giá trị sản phẩm và nâng cao vị thế của gạo Việt trên thị trường quốc tế", bà Hương nhấn mạnh.

Ứng dụng công nghệ số, minh bạch hóa quy trình sản xuất

TS Nguyễn Văn Hùng, chuyên gia cấp cao, Trưởng nhóm Cơ giới hóa và Sau thu hoạch của IRRI Việt Nam nhấn mạnh, lĩnh vực trồng trọt đã có những bước tiến đáng kể trong việc xây dựng hệ sinh thái dữ liệu số phục vụ quản lý sản xuất lúa. Một ví dụ điển hình là hệ thống RiceMoRe phục vụ theo dõi và báo cáo sản xuất lúa do Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật cùng Trung tâm Chuyển đổi số và Thống kê Nông nghiệp và IRRI phối hợp phát triển.

Theo TS Hùng, RiceMoRe giúp tự động tổng hợp dữ liệu theo các cấp quản lý, từ nông hộ, HTX đến cấp vùng và quốc gia, qua đó nâng cao đáng kể chất lượng báo cáo và thống kê sản xuất lúa. Đặc biệt, hệ thống còn có khả năng lưu trữ và xử lý dữ liệu về phát thải khí nhà kính từ canh tác lúa.

“Việc phát triển và ứng dụng các công nghệ số như RiceMoRe sẽ góp phần tạo nền tảng vững chắc cho ngành nông nghiệp Việt Nam hướng đến năm 2028 với mục tiêu minh bạch hóa quy trình sản xuất, nâng cao giá trị sản phẩm và đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của thị trường trong nước và quốc tế”, TS Hùng khẳng định.

Hiện nay, đã có 5 địa phương thí điểm canh tác lúa giảm phát thải qua 3 vụ gồm Sóc Trăng, TP Cần Thơ, Trà Vinh, Đồng Tháp và Kiên Giang. VIETRISA sẽ khuyến khích các doanh nghiệp tham gia thu mua gạo ở các mô hình thí điểm sử dụng nhãn mác “phát thải thấp" trên bao bì sản phẩm.

Xem thêm
Nuôi trâu, bò vỗ béo, sinh kế bền vững cho đồng bào vùng cao

Mô hình nuôi trâu, bò vỗ béo đang trở thành hướng đi hiệu quả giúp đồng bào vùng cao Tuyên Quang ổn định sinh kế, vươn lên thoát nghèo bền vững.

Âu Lâu bớt âu lo nhờ chủ động phòng dịch đàn gia súc

Lào Cai Không còn thấp thỏm mỗi khi nghe tin dịch lở mồm long móng xuất hiện ở đâu đó, người dân nay đã yên tâm phần nào khi chủ động phòng dịch, tiêm phòng đều.

Nông nghiệp và môi trường vùng ĐBSCL: 80 năm thích nghi, chuyển mình

80 năm ngành nông nghiệp và môi trường vùng ĐBSCL là câu chuyện của sự thích nghi và chuyển mình không ngừng, chung mục tiêu phát triển hài hòa sản xuất, bảo vệ môi trường.

Giống đậu xanh mới ĐXBĐ.07 năng suất 2 - 2,5 tấn/ha, không lo khảm lá

Giống đậu xanh ĐXBĐ.07 năng suất cao, kháng bệnh khảm lá, góp phần chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng vùng Nam Trung Bộ.

Nuôi biển công nghệ cao: Khai mở tiềm năng, vượt thách thức

KHÁNH HÒA Tỉnh Khánh Hòa đang chuyển mạnh sang nuôi biển công nghệ cao nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu, nâng cao giá trị và sản lượng thủy sản.

Việt Nam tăng tốc hoàn thiện hệ thống mã số rừng trồng

Các chuyên gia nhận định, việc xây dựng và vận hành hệ thống này giúp kiểm soát nguồn gốc gỗ, nâng cao chất lượng và đáp ứng các quy định từ thị trường quốc tế.