Nhà thờ đại tôn Nguyễn Ngọc Huyền
Xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá xưa kia có tên là Kẻ Vụt sau gọi là Hoằng Bột gồm hai làng Hoằng Nghĩa và Bột Hưng tạo nên một vóc dáng hiên ngang như cây dừa cao vút. Miền quê “địa linh nhân kiệt ấy” có tiếng là đất học của xứ Thanh, lấy việc học làm nghề để kiếm sống.
Hoằng Lộc ẩn mình dưới những rặng dừa quanh năm một màu xanh dịu. Với một quần thể kiến trúc bố trí tương đối hài hoà, gồm nhà thờ họ, miếu mạo, đình chùa, trường học, nhà ở cùng với hệ thống đường sá phong quang, Hoằng Lộc mang phong thái của một vùng đất học.
Trai, gái, dâu, rể đều là tiến sĩ
Người đầu tiên chúng tôi tìm gặp khi về Hoằng Lộc là ông Nguyễn Văn Kỳ- Chủ tịch Hội Khuyến học xã. Ông Kỳ nói: “Thời phong kiến, Hoằng Lộc có 12 vị tiến sĩ được đề danh trên bảng vàng đại khoa, trong đó có 7 vị được khắc tên tại Văn Miếu Quốc Tử giám Hà Nội. Sau cách mạng tháng Tám, số tiến sĩ là con em Hoằng Lộc lên đến 45 người. 5 năm qua toàn xã có 258 gia đình đạt danh hiệu gia đình hiếu học, trên 60 gia đình- mỗi nhà có từ 3 đến 5 người con học đại học. Có những gia đình cả con trai, con gái, con dâu và cháu nội đều là tiến sĩ. 5 năm qua toàn xã đã có 204 em trúng tuyển vào các trường đại học”.
Theo lời kể của ông Kỳ, chúng tôi tìm đến nhà bà Nguyễn Thị Huệ xóm Hưng Tiến. Bà Huệ cho biết: “Tôi và ông nhà lấy nhau trong bối cảnh đất nước có chiến tranh, xóm làng nghèo xơ xác nhưng vẫn phải tảo tần cho các con ăn học. Hiện nhà có 4 người con đẻ là tiến sĩ, cô con dâu là thạc sỹ và đứa cháu nội Nguyễn Song Anh cũng là tiến sĩ”. Chia tay bà Huệ, tôi đã tìm đến thầy giáo Nguyễn Song Hoan- Hiệu phó Trường Đại học Hồng Đức là con trai bà. Anh Hoan xúc động khi nhớ lại những tháng năm đèn sách: “Bốn anh em chúng tôi được bố mẹ xác định học là việc chính, xem đó là nghề để kiếm sống sau này”.
Ông Hoàng Hữu Tài- Chủ tịch UBND xã Hoằng Lộc tâm sự: “Làng đã xây dựng Bảng Môn Đình làm biểu tượng thiêng liêng của đất học, nơi hội tụ và biểu dương thành tích học tập của các sĩ tử nho sinh. Bảng Môn có nghĩa là cửa vào của các nhà khoa bảng. Vào dịp đầu xuân năm mới, con cháu đỗ đạt hội tụ về Bảng Môn Đình để “vinh quy bái tổ”. Trong ngày tế lễ đầu năm, việc bố trí chỗ ngồi được quy định theo lệ: Đỗ đại khoa (tiến sĩ) ngồi chiếu trên rồi đến hương cống, cử nhân. Hàng chiếu bên trái là các sinh đồ, tú tài. Hàng chiếu bên phải dành cho những nho sinh, sĩ tử chưa thi đỗ, hoặc những người trong làng Văn- tuy chưa có học vị nhưng phẩm chất đạo đức tốt”.
Tương truyền rằng: “Một lần trong ngày đầu năm tại Bảng Môn Đình có hai người đỗ đạt cùng đến dự, theo lệ làng thì người nào đỗ đạt cao hơn được ngồi chiếu trên còn người dù có chức quyền cao nhưng đỗ đạt thấp hơn thì vẫn phải ngồi chiếu dưới. Chính vì điều này mà làm cho người có chức quyền cao ấy tức giận đành ra một vế đối cho làng và bảo: Nếu làng đối được thì vẫn giữ nguyên tục lệ này còn không thì xoá bỏ tục lệ và Bảng Môn Đình. Vế đối là: “Ngói đỏ lợp nghè, hòn trên đè hòn dưới”. Chỉ trong chốc lát vị khách đỗ đạt cao ngồi ở chiếu trên xin phép làng đối lại rằng: “Đá xanh xây cống, hòn dưới chống hòn trên”. Một tràng phào tay tán thưởng nên vị có chức quyền cao kia đành chấp nhận ngồi chiếu dưới. Giai thoại này muốn nói lên rằng học vấn cao vẫn luôn được coi trọng hơn chức tước.
Học trò Hoằng Lộc xưa cũng rất nổi tiếng về luyện rèn trong học tập, kiên trì trong khoa cử. Đó là Nguyễn Cầu thi đỗ tú tài lúc 13 tuổi, năm 16 tuổi đỗ hương cống. Nguyễn Huy kiên nhẫn dự thi hội tới 9 khoa. Nguyễn Đôn Túc dự tới 9 khoa thi hương, đậu cử nhân lúc đã cao tuổi khiến cho quan trường đương thời rất cảm phục. Ngày nay mỗi năm cả xã có từ 40- 50 em thi đậu vào các trường đại học. Tiêu biểu như em Nguyễn Phi Lê đạt giải nhì cuộc thi toán Quốc tế tại Hàn Quốc năm 2000, sau giành học bổng toàn phần đi du học học tại Nhật Bản. Những lời ca ngợi của nhân dân xứ Thanh: “Thi Hoằng Hoá, khoá Đông Sơn”, hay “Cơm Nông Cống, cá Quảng Xương, văn chương Hoằng Hoá” đã cho thấy một Hoằng Lộc nói riêng, Hoằng Hoá nói chung có truyền thống khoa cử.
Làm giàu bằng trí tuệ
+ Hoằng Lộc có một CLB nhà giáo hưu trí với gần 100 nhà giáo đang sinh hoạt. Điều đó cho thấy, người thầy có ngay trong gia đình, trong dòng họ. Việc học ở Hoằng Lộc đã thành nếp, nhà nhà học, người người học. Nơi đây đã có truyền thống cha dạy con, ông dạy cháu, anh dạy em nối tiếp dòng thi thư. Sĩ tử Hoằng Lộc phần lớn học trong gia đình, trong dòng họ. + Xã Hoằng Lộc có 6 di tích lịch sử (3 di tích cấp Quốc gia), trong đó đáng chú ý là Bảng Môn Đình và nhà thờ Nguyễn Quỳnh (Cống Quỳnh). “Từ mấy thế kỷ nay, trong tâm thức không ít người Việt tôn vinh Cống Quỳnh. Nhiều nơi còn gọi Hoằng Lộc là đất Trạng, đất có nhiều người đỗ đạt khoa bảng”- cựu TBT Lê Khả Phiêu (18/2/2003).
Là vùng đất sản xuất nông nghiệp trồng lúa nước, trồng màu và cây ăn quả, Hoằng Lộc không chỉ giàu kinh nghiệm trong gieo trồng cây lúa mà còn rất giàu kinh nghiệm về trồng khoai và trồng dừa cho năng suất cao. Gặp những năm mất mùa,
khoai lang Hoằng Lộc đã trở thành nguồn lương thực chính nên dân gian xưa có câu: “Ông nghè, ông cống cũng sống vì lang/Ông lý giữa làng không lang cũng chết”.
Nói thế chứ “trăm nghe không bằng một thấy”, về Hoằng Lộc tôi được anh Thọ- cán bộ xã dẫn đi thăm một số mô hình kinh tế của nông dân trong xã. Đến thăm nhà anh Nguyễn Hữu Quyền- thôn Sau mới thấy báo cáo của UBND xã không hề “ngoa”. Anh Quyền là hộ nông dân sản xuất giỏi và nuôi con học đại học. Anh nhận 2 mẫu ruộng khoán sau dồn điền đổi thửa, anh mạnh dạn mua máy móc phục vụ cho SX: “Làm nông như tôi thì không lỗ, kinh nghiệm cho thấy SX trên ruộng được tích tụ, thuận lợi cho canh tác và cơ cấu giống; Kết hợp với việc đưa cơ giới hoá vào SX nên hiệu quả rất cao. Bên cạnh đó tôi liên tục sử dụng các giống lúa mới nên mỗi năm nhà tôi thu hoạch được 10 tấn lúa”. Hàng năm, anh Quyền kiếm được 50- 60 triệu đồng từ làm lúa, chăn nuôi và làm đất thuê.
Hoằng Lộc có nhiều mô hình làm ruộng như anh Quyền cho thu nhập cao mà không bị lỗ. Cùng với SX nông nghiệp, dịch vụ thương mại ở Hoằng Lộc cũng khá phát triển. Toàn xã có 240 hộ kinh doanh, buôn bán có thu nhập ổn định trên 60 triệu đồng/năm. Mạng lưới giao thông nông thôn đều được bê tông hoá, có đường nhựa đi vào từng thôn xóm. Hơn 50% số hộ gia đình có nhà cao tầng, 100% hộ có ti vi, 1.200 xe máy đời mới, máy điện thoại cố định bình quân 16 máy/100 dân. Tỷ lệ hộ giàu chiếm 1/3.
Về Hoằng Lộc chúng ta còn bắt gặp sự tài hoa của những người thợ biết làm ra những sản phẩm mang vóc dáng hồn quê, đậm đà chất Việt. Tôi muốn nhắc đến nghề dệt, nghề thợ nơi đây. Nghề dệt đã luyện cho người phụ nữ sức dẻo dai, đôi mắt tinh nhanh và bàn tay khéo léo. Hình ảnh người con gái đoan trang, chăm lo việc canh cửi, sánh với người con trai gắng công đèn sách, đỗ đạt từng được coi là điển hình và là niềm tự hào của quê hương. Còn các công trình xây dựng Bảng Môn Đình, chùa Nhờn đều có bàn tay tài hoa của người thợ trong xã đóng góp.