
Hoạt động trồng lúa tại Việt Nam chiếm khoảng 46% tổng lượng khí nhà kính phát thải trong ngành nông nghiệp. Ảnh: Trung Chánh.
Mô hình lúa – tôm có thể giảm phát thải lên tới 46,4%
ThS. Đinh Quang Hiếu, Chuyên gia nghiên cứu thực địa của Viện Môi trường Nông nghiệp, cho biết mô hình lúa – tôm cho thấy khả năng giảm phát thải đáng kể so với hệ thống chuyên canh hai vụ lúa mỗi năm. Theo nguồn dữ liệu kế thừa các đề tài, dự án trước đó, tiềm năng giảm phát thải có thể lên tới 46,4%.
Một trong những yếu tố chính góp phần vào hiệu quả này là canh tác một vụ lúa/năm nhằm giảm lượng carbon từ phụ phẩm lúa trở lại đất. Song song đó, thu gom, xử lý rơm rạ và phơi ải kỹ các giai đoạn đất nghỉ giúp tăng khả năng oxy hóa, giảm phát thải khí CH₄.
“Trong quá trình thử nghiệm, vụ tôm ghi nhận mức phát thải thấp hơn đáng kể so với vụ lúa, (độ mức tin cậy 95%, p < 0,05). Chúng tôi cho rằng nguyên nhân có thể do đặc điểm hình thái cây lúa làm tăng phát thải CH₄ qua thân cây”, ông Hiếu cho biết thêm.
Kết quả đo đạc trong một năm sản xuất cho thấy, tổng phát thải khí nhà kính trung bình của mô hình lúa – tôm là 6.371 kg CO₂e/ha/năm. Trong đó, vụ lúa chiếm 55,9%, vụ tôm chiếm 37,3%, còn lại 6,8% thuộc về các giai đoạn đất nghỉ. CH₄ là khí nhà kính chủ yếu, chiếm tới 94% tổng lượng phát thải.
Đáng chú ý, vụ tôm đã giúp giảm khoảng 1,2 tấn CO₂e (tương đương 33,3%) so với vụ lúa. Nhờ các đặc điểm canh tác, quản lý thu gom rơm rạ và điều tiết nước hợp lý, ngay cả vụ lúa trong mô hình lúa – tôm cũng có lượng phát thải thấp hơn so với lúa trong mô hình chuyên canh. “Những kết quả này cho thấy hệ thống luân canh lúa – tôm không chỉ có tiềm năng thích ứng với biến đổi khí hậu mà còn là hướng đi hiệu quả trong giảm nhẹ phát thải khí nhà kính trong nông nghiệp tại Đồng bằng sông Cửu Long”, ông Hiếu chia sẻ.

Sản xuất theo mô hình lúa - tôm không chỉ thích ứng với biến đổi khí hậu mà còn thích hợp cho sản xuất theo quy chuẩn, tiêu chuẩn, nhất là sản xuất hữu cơ, nâng cao giá trị sản phẩm. Ảnh: Văn Vũ.
Tuy nhiên, việc thực hiện các quy định và kiểm kê khí nhà kính trong sản xuất lúa hiện đang đối mặt với nhiều thách thức lớn, đặc biệt là độ chính xác không nhất quán giữa các cấp độ dữ liệu từ địa phương đến trung ương.
Thiếu nguồn tài chính và hạn chế trong tiếp cận các công cụ, công nghệ hiện đại càng làm gia tăng khó khăn khi triển khai thực tế. Theo PGS. Hoàng Viết Ngữ, việc sử dụng hướng dẫn của IPCC thường bị vướng mắc do nguồn dữ liệu đầu vào không đầy đủ hoặc không đáp ứng yêu cầu tích hợp giữa các cấp. Đồng thời, quyền truy cập hạn chế và phân định trách nhiệm chưa rõ ràng giữa các cấp quản lý cũng là hai thách thức lớn cản trở quá trình thu thập và sử dụng dữ liệu hiệu quả.
Hướng dẫn IPCC là bộ tài liệu kỹ thuật do Ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu ban hành, nhằm hỗ trợ các quốc gia trong việc kiểm kê khí nhà kính một cách thống nhất, minh bạch và khoa học.
Hiệu chuẩn mô hình DayCent phù hợp với điều kiện thực tế trong nước
Trước thực trạng đó, PGS. Hoàng Viết Ngữ đề xuất ba giải pháp ưu tiên chính gồm: xây dựng hệ thống chia sẻ dữ liệu tích hợp giữa các cấp và các ngành; tăng cường năng lực cho đội ngũ chuyên môn; và thiết lập quy trình tư vấn, hỗ trợ kỹ thuật rõ ràng.
“Về xây dựng năng lực, cần tập trung vào ba nội dung trọng tâm: bảo đảm chất lượng và phân tích dữ liệu, tăng cường phối hợp giữa các cơ quan, và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý dữ liệu.
Đồng thời, chính sách hỗ trợ cũng cần được cải thiện, đặc biệt là về minh bạch hóa thông tin giữa các cấp, hỗ trợ thu thập và tích hợp dữ liệu, đồng thời phát triển các công cụ MRV (giám sát, báo cáo và thẩm tra) hiệu quả và phù hợp với điều kiện thực tế tại địa phương”, ông Ngữ cho biết.

Canh tác lúa tại Việt Nam được đánh giá có tiềm năng lớn trong việc giảm phát thải và thúc đẩy sản xuất bền vững. Ảnh: Tùng Đinh.
Trong khuôn khổ hội thảo "Cải thiện phương pháp và quản trị hệ thống kiểm kê khí nhà kính trong canh tác lúa tại Việt Nam" mới đây, bà Dương Linh Phương, đại diện Viện Môi trường Nông nghiệp - Đại học Công nghệ Queensland (Úc) cho biết hiện nay có ba cấp độ trong kiểm kê khí nhà kính. Cụ thể: Cấp 1 sử dụng hệ số phát thải (EF) mặc định và dữ liệu hoạt động cơ bản; Cấp 2 sử dụng EF đặc thù cho từng quốc gia và dữ liệu chi tiết hơn; Cấp 3, dựa vào mô hình và hệ thống giám sát được hiệu chỉnh theo điều kiện cụ thể của từng quốc gia, lặp lại theo thời gian, sử dụng dữ liệu hoạt động có độ phân giải cao (từ vệ tinh hoặc đo đạc tại chỗ) và cho phép phân tích ở cấp địa phương.
Các mô hình ở cấp 3 có thể mang tính thực nghiệm hoặc cơ học, song đều cần được kiểm định thông qua các quan sát độc lập từ nghiên cứu trong nước hoặc khu vực. Một số quốc gia đã áp dụng phương pháp bậc 3 trong Thông cáo Quốc gia gửi UNFCCC như: Trung Quốc với mô hình CH4MOD, Nhật Bản với DNDC-Rice và Hoa Kỳ với DayCent.
Đặc biệt, DayCent là mô hình sinh địa hóa nổi bật, được sử dụng rộng rãi trên toàn cầu. Mô hình này đã được kiểm định cho canh tác lúa ở Trung Quốc và Bangladesh, ứng dụng cho kiểm kê khí nhà kính ở Hoa Kỳ cũng như các hệ thống tín chỉ carbon tự nguyện toàn cầu.
“Các mô hình dựa trên quy trình như DayCent sẽ là công cụ mạnh mẽ cho kiểm kê quốc gia và phát triển chiến lược thích ứng, giảm phát thải. Với nền tảng khoa học vững chắc và mức độ xác nhận cao, DayCent là một ứng cử viên triển vọng để áp dụng tại Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực canh tác lúa. Tuy nhiên, mô hình cần được hiệu chuẩn phù hợp với điều kiện thực tế trong nước. Các kết quả bước đầu của quá trình hiệu chuẩn sẽ được trình bày trong phần tiếp theo”, bà Phương đánh giá.
Mô hình DayCent là phiên bản theo dõi theo ngày của mô hình sinh hóa học CENTURY, được phát triển để mô phỏng dòng chảy carbon (C) và nitơ (N) trong hệ sinh thái đất – thực vật – khí quyển. Được phát triển bởi Phòng thí nghiệm Sinh thái Học Tài nguyên Thiên nhiên của Đại học Bang Colorado, DayCent được sử dụng rộng rãi để đánh giá phát thải khí nhà kính từ đất nông nghiệp và rừng, cũng như để phân tích tác động của các biện pháp canh tác đến chu trình dinh dưỡng và chất lượng đất.