Cuộc họp tham vấn “Thúc đẩy thu hồi vật liệu và cải tạo các bãi chôn lấp hướng tới kinh tế tuần hoàn” do Viện Chiến lược, chính sách Nông nghiệp và Môi trường tổ chức ngày 19/12 tại Hà Nội đã tập trung thảo luận kết quả nghiên cứu tiền khả thi do Ngân hàng Thế giới tài trợ, nhằm phân tích khả năng phát triển các trạm trung chuyển và cơ sở thu hồi vật liệu phục vụ chuyển đổi mô hình quản lý chất thải theo hướng kinh tế tuần hoàn.
Ông Nguyễn Trung Thắng, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và Môi trường cho biết, lượng rác thải tăng nhanh đang tạo sức ép lớn lên hệ thống xử lý. Ảnh: Hoàng Hiền.
Đã có nền tảng pháp lý
Phát biểu tại cuộc họp, ông Nguyễn Trung Thắng, Phó Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và Môi trường, để giải quyết vấn đề khối lượng chất thải rắn sinh hoạt tăng nhanh, xử lý chất thải rắn vẫn chủ yếu dựa vào chôn lấp, tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm kéo dài, việc tái chế, tuần hoàn tài nguyên rác đã được thể chế hóa. .
Theo đó, Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương và Kết luận số 81-KL/TW của Bộ Chính trị đều nhấn mạnh yêu cầu thúc đẩy tái sử dụng, tái chế và thu hồi năng lượng từ chất thải, đồng thời hạn chế chôn lấp trực tiếp. Trên cơ sở đó, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 122/NQ-CP ngày 08/5/2025, xác định nhiệm vụ đầu tư hạ tầng phân loại, thu gom, trung chuyển, tái chế và xử lý chất thải rắn; giảm dần tỷ lệ chôn lấp; cải tạo, phục hồi môi trường các bãi chôn lấp không hợp vệ sinh và phát triển các khu xử lý chất thải liên vùng, liên tỉnh.
Luật Bảo vệ môi trường 2020 cùng các nghị định hướng dẫn đã thể chế hóa nhiều nguyên tắc cốt lõi của kinh tế tuần hoàn, từ phân loại rác tại nguồn, thu phí dịch vụ theo lượng phát sinh đến trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất. Nhiều địa phương đã chủ động xây dựng quy hoạch, cải thiện hạ tầng và nâng tỷ lệ thu gom rác thải sinh hoạt đô thị.
Luật Bảo vệ môi trường 2020 tiếp tục cụ thể hóa các định hướng này bằng những quy định mang tính bắt buộc. Các nghị định hướng dẫn như Nghị định số 08/2022/NĐ-CP và Nghị định số 05/2025/NĐ-CP đã bổ sung các cơ chế thực thi, trong đó có ký quỹ bảo vệ môi trường đối với hoạt động chôn lấp và các chính sách ưu đãi cho hoạt động tái chế, thu hồi vật liệu.
Cùng với đó, Chiến lược quản lý tổng hợp chất thải rắn đến năm 2025, tầm nhìn 2050 đặt mục tiêu kéo giảm tỷ lệ chôn lấp xuống dưới 30%, coi tái chế, thu hồi vật liệu và năng lượng từ chất thải là giải pháp trung tâm. Khung chính sách này đang tạo nền tảng quan trọng để các địa phương từng bước chuyển dịch từ mô hình xử lý “thu gom - chôn lấp” sang quản lý chất thải theo hướng kinh tế tuần hoàn bền vững.
Bước chuyển trong quản lý chất thải
Để có cơ sở hiện thực hóa việc thu hồi vật liệu, cải tạo bãi chôn lấp, Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và Môi trường, Ngân hàng thế giới đã thực hiện nghiên cứu tiền khả thi nhằm phân tích khả năng phát triển các trạm trung chuyển và cơ sở thu hồi vật liệu phục vụ chuyển đổi mô hình quản lý chất thải theo hướng kinh tế tuần hoàn.
Nghiên cứu không chỉ dừng ở khuyến nghị tổng quát, mà đi sâu phân tích hiện trạng phát sinh chất thải, hạ tầng xử lý, dòng vật liệu, chi phí đầu tư - vận hành và tính khả thi tài chính, kinh tế của từng phương án tại các địa phương cụ thể là Nghệ An và Hải Phòng.
Ông Đặng Đức Cường, chuyên gia cao cấp về Đô thị của Ngân hàng Thế giới cho rằng cần linh hoạt trong việc áp dụng các giải pháp đối với từng địa phương. Ảnh: Hoàng Hiền.
Ông Đặng Đức Cường, chuyên gia cao cấp về Đô thị của Ngân hàng Thế giới, cho biết Hải Phòng và Vinh đang đứng trước những thách thức khác nhau nhưng có điểm chung là áp lực xử lý rác ngày càng gia tăng. Hải Phòng hiện phát sinh khoảng 2.000-2.063 tấn rác sinh hoạt mỗi ngày, tỷ lệ thu gom đạt 99-100%, song phần lớn vẫn được xử lý bằng chôn lấp hợp vệ sinh. Trong khi đó, thành phố Vinh và khu vực mở rộng phát sinh khoảng 400-500 tấn rác mỗi ngày, tỷ lệ phân loại tại nguồn còn thấp, dưới 20%, vật liệu tái chế chủ yếu được thu hồi thủ công trước khi đưa về khu xử lý tập trung Nghi Yên. Những khác biệt này đòi hỏi các giải pháp phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa phương, thay vì áp dụng một mô hình chung.
Tại thành phố Vinh và khu vực mở rộng của tỉnh Nghệ An, nghiên cứu tập trung đánh giá khả năng phát triển hệ thống trạm trung chuyển kết hợp phân loại, cùng cơ sở thu hồi vật liệu và xử lý chất thải tập trung tại khu Nghi Yên. Trên cơ sở dự báo lượng rác phát sinh và đặc điểm thành phần rác, các chuyên gia đề xuất mô hình thu hồi vật liệu, ủ phân và sản xuất nhiên liệu từ rác nhằm giảm đáng kể lượng chất thải phải đưa đi chôn lấp, đồng thời nâng cao hiệu quả vận chuyển và xử lý.
Đối với thành phố Hải Phòng, nghiên cứu xem xét phát triển các cơ sở thu hồi vật liệu và xử lý chất thải quy mô lớn tại khu vực Trần Dương (Vĩnh Bảo) và khu xử lý Áng Chà Chà (Cát Hải), gắn với định hướng hình thành các khu xử lý chất thải liên vùng. Các phương án được xây dựng dựa trên nhiều kịch bản về công suất, chi phí và khả năng đáp ứng yêu cầu phân loại rác tại nguồn theo Luật Bảo vệ môi trường 2020.
Một trong những nội dung được thảo luận sâu tại cuộc họp là vai trò của các cơ sở thu hồi vật liệu và sản xuất nhiên liệu từ rác trong việc giảm phụ thuộc vào chôn lấp. Theo các chuyên gia, nếu hệ thống phân loại tại nguồn, trung chuyển và thu hồi vật liệu được triển khai đồng bộ, lượng chất thải phải chôn lấp có thể giảm tới khoảng 70%. Các cơ sở thu hồi vật liệu giúp tách và đưa trở lại chu trình sản xuất những vật liệu còn giá trị, trong khi nhiên liệu tái chế từ rác có thể phục vụ sản xuất xi măng, phát điện hoặc các ngành công nghiệp sử dụng nhiều năng lượng, qua đó giảm áp lực lên tài nguyên hóa thạch và quỹ đất chôn lấp.
Sở Nông nghiệp và Môi trường Hải Phòng kỳ vọng các khuyến nghị từ nghiên cứu sẽ giúp Hải Phòng từng bước xử lý dứt điểm các bãi rác cũ, đồng thời xây dựng mô hình quản lý chất thải hiện đại, trở thành hình mẫu cho các địa phương khác.
Trong khi đó, đại diện Sở Nông nghiệp và Môi trường Nghệ An thẳng thắn nhìn nhận hạ tầng xử lý còn thiếu thốn, chi phí dịch vụ chưa đáp ứng thực tế, ngân sách nhà nước vẫn phải bù đắp phần lớn cho hoạt động thu gom và xử lý rác.
Một điểm đáng chú ý được các chuyên gia nhấn mạnh là bài toán tài chính trong đầu tư hạ tầng xử lý chất thải. Báo cáo của Ngân hàng Thế giới chỉ ra rằng doanh thu từ bán vật liệu tái chế hoặc nhiên liệu từ rác thường không đủ để bù đắp toàn bộ chi phí đầu tư và vận hành, nếu xét thuần túy theo logic thị trường. Tuy nhiên, khi tính đủ các lợi ích kinh tế - xã hội như giảm phát thải khí nhà kính, bảo vệ đất và nguồn nước, giảm chi phí y tế và cải thiện sức khỏe cộng đồng, các dự án này mang lại hiệu quả kinh tế tổng thể rất cao, vượt xa chi phí bỏ ra. Đây cũng là lý do Nhà nước và các tổ chức quốc tế tiếp tục ưu tiên hỗ trợ các mô hình quản lý chất thải theo hướng kinh tế tuần hoàn, thay vì chỉ nhìn vào lợi nhuận tài chính ngắn hạn.
Có thể thấy, việc thúc đẩy thu hồi vật liệu và cải tạo bãi chôn lấp không chỉ là giải pháp kỹ thuật, mà là một bước chuyển quan trọng trong tư duy quản lý chất thải. Chuyển đổi này đòi hỏi cách tiếp cận từng giai đoạn, kết hợp giữa hoàn thiện chính sách, đầu tư hạ tầng, huy động khu vực tư nhân và nâng cao nhận thức cộng đồng. Những kết quả nghiên cứu và khuyến nghị được chia sẻ tại cuộc họp được kỳ vọng sẽ trở thành cơ sở quan trọng để các địa phương xây dựng lộ trình giảm dần chôn lấp, khai thác hiệu quả giá trị của chất thải và hướng tới mục tiêu phát triển bền vững trong giai đoạn tới.



























