Nguyên tắc chung
Thực hiện theo phương châm phòng là chính, theo định hướng quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp (IPHM) bao gồm: bảo vệ sức khỏe đất; sử dụng giống sạch bệnh; biện pháp canh tác nhằm hạn chế sinh vật gây hại; bảo tồn thiên địch; giám sát và quyết định dựa trên ngưỡng hành động.
Trong đó, phải thường xuyên điều tra sinh vật gây hại trên đồng ruộng, nắm được diễn biến các loại sinh vật gây hại chính và các yếu tố ngoại cảnh tác động đến chúng; nhận định khả năng phát sinh, phát triển và gây hại của sinh vật gây hại chính trong thời gian tới để áp dụng biện pháp phòng, chống phù hợp.
Lưu ý, chỉ sử dụng thuốc bảo vệ thực vật khi thật cần thiết. Thuốc sử dụng phải nằm trong Danh mục thuốc bảo vệ thực vật được phép sử dụng cho cây sắn và phải thực hiện theo nguyên tắc bốn đúng, tuân thủ thời gian cách ly; bảo đảm hiệu quả, an toàn cho người, an toàn thực phẩm, hạn chế tối đa ô nhiễm môi trường, bảo vệ hệ sinh thái.
Để thực hiện quy trình quản lý IPHM, phải thường xuyên điều tra sinh vật gây hại trên đồng ruộng. Ảnh: CIAT.
Quy trình quản lý sức khỏe cây trồng tổng hợp trên cây sắn
- Chuẩn bị, cải tạo và làm đất
Chuẩn bị và cải tạo đất là khâu quan trọng quyết định năng suất sắn. Đất trồng sắn thích hợp nhất là đất cát pha, đất thịt nhẹ đến thịt trung bình, tơi xốp, thoát nước tốt, tầng đất mặt dày trên 50 cm. Nên chọn vùng đất cao ráo, tránh các loại đất nhiễm phèn, mặn, đất thấp trũng, dễ ngập úng.
Cải tạo đất cần tập trung nâng cao độ mùn và dinh dưỡng bằng phân hữu cơ hoai mục; sử dụng vôi bột để cân bằng pH, cải thiện cấu trúc đất, bổ sung Ca, Mg, thúc đẩy vi sinh vật có lợi và hạn chế độc tố kim loại nặng. Đồng thời, trồng cây che phủ hoặc cây họ đậu giúp cải thiện đất và chống xói mòn.
Việc làm đất tùy thuộc địa hình. Ở vùng đất bằng phẳng, cần cày sâu, bừa kỹ 1 - 2 lần, lên luống cao 20 - 25 cm, mặt luống rộng 0,8 - 1,0 m, kết hợp đào mương thoát nước ở vùng trũng. Với đất đồi dốc dưới 15°, tiến hành cày bừa và lên luống nếu đất kém thoát nước.
Đối với độ dốc 15 - 25°, không cày bừa mà cuốc hốc hoặc rạch hàng theo đường đồng mức. Những ruộng từng bị thối củ cần vệ sinh, cày ải, bón vôi trước trồng 15 ngày và bón lót phân hữu cơ có Trichoderma để hạn chế bệnh.
- Thời vụ trồng
Canh tác sắn ở Việt Nam hiện nay chủ yếu phụ thuộc vào nước trời, vì vậy việc xác định thời vụ trồng cần căn cứ vào điều kiện khí hậu, lượng mưa, nhiệt độ từng vùng và đặc tính sinh trưởng của giống.
Ở Trung du miền núi phía Bắc, sắn được trồng từ giữa tháng 2 đến đầu tháng 4 khi thời tiết ấm và đất đủ ẩm. Vùng Bắc Trung Bộ trồng từ tháng 1 đến trước lập xuân; riêng vùng núi khô hạn không có tưới nên trồng cuối tháng 4 đến đầu tháng 5 khi có mưa.
Duyên hải Nam Trung Bộ trồng từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau, còn đất đồi giáp Tây Nguyên trồng tháng 4 - 5. Tây Nguyên trồng chủ yếu đầu mùa mưa (tháng 4 - 5) hoặc cuối mùa mưa (tháng 9 - 10). Đông Nam Bộ có hai vụ: hè thu trồng tháng 4–5 và đông xuân trồng tháng 9 - 10 ở nơi chủ động nước tưới.
Cần lưu ý giai đoạn nảy mầm của sắn rất mẫn cảm với khô hạn, do đó phải trồng khi đất đủ ẩm, tránh hạn đầu vụ. Nên chờ vài cơn mưa lớn đầu mùa để đất thấm ẩm sâu trước khi trồng. Vụ đông xuân chỉ phù hợp nơi có tưới và tránh giống mẫn cảm sâu hại; vụ hè thu không nên trồng muộn sau tháng 7 vì đất lạnh, khó nảy mầm và giảm năng suất.
Đất và thời vụ trồng sắn cần được quan tâm, lưu ý. Ảnh: CIAT.
- Chọn giống
Việc lựa chọn và xử lý giống là yếu tố then chốt nhằm đảm bảo năng suất và hạn chế sâu bệnh hại sắn. Cần tuân thủ khuyến cáo về cơ cấu giống của từng địa phương, ưu tiên sử dụng giống có nguồn gốc rõ ràng, đạt tiêu chuẩn chất lượng và có khả năng kháng bệnh tốt, đặc biệt không sử dụng các giống mẫn cảm với bệnh khảm lá sắn.
Hom giống phải được lấy từ những ruộng sạch sâu bệnh; tuyệt đối không sử dụng hom từ ruộng đã xuất hiện bệnh để làm giống cho vụ sau nhằm tránh lây lan dịch hại.
Hom sắn dùng để trồng cần khỏe mạnh, không sâu bệnh, được lấy từ cây mẹ 8–12 tháng tuổi, có đường kính thân đạt trên 80% đặc trưng của giống, không bị dập nát hay trầy xước.
Nên sử dụng hom bánh tẻ, vị trí cách gốc 15–20 cm, cắt bằng dụng cụ sắc bén hoặc máy cắt chuyên dụng để hạn chế tổn thương cơ giới. Mỗi hom dài khoảng 20 cm, có tối thiểu 6–8 đốt để đảm bảo khả năng nảy mầm và sinh trưởng tốt.
Trước khi trồng, khuyến khích xử lý hom bằng tro, nước vôi hoặc các loại thuốc bảo vệ thực vật theo hướng dẫn chuyên môn nhằm kích thích ra rễ, phòng trừ mối kiến và sâu bệnh hại, góp phần nâng cao tỷ lệ sống và phát triển đồng đều của cây sắn.
- Kỹ thuật trồng
Việc đặt hom và bố trí mật độ trồng hợp lý có vai trò quan trọng đối với khả năng nảy mầm, sinh trưởng và năng suất sắn. Hiện nay có ba phương pháp đặt hom phổ biến. Đặt hom ngang thường áp dụng trên đất bằng phẳng; hom được đặt nằm ngang theo hàng hoặc hốc, ép chặt tiếp xúc với đất và lấp đất dày 3 - 5 cm.
Phương pháp đặt hom xiên phù hợp với đất đồi, hom đặt nghiêng theo sườn dốc với góc 30 - 45°, phần ngọn hướng lên trên, giúp hạn chế xói mòn và tăng khả năng bén rễ.
Trồng đứng là phương pháp cắm hom vuông góc với mặt đất, phần cắm sâu 7 - 10 cm, phần hom nhô lên khỏi mặt đất 5–7 cm, thường áp dụng khi trồng muộn hoặc trong điều kiện đất ẩm không đồng đều.
Mật độ và khoảng cách trồng cần căn cứ vào độ phì của đất và đặc tính giống, theo nguyên tắc đất tốt trồng thưa, đất xấu trồng dày. Mật độ phổ biến dao động từ 10.000 cây/ha (khoảng cách 1 m × 1 m) đến 17.800 cây/ha (0,8 m × 0,7 m). Riêng các giống trồng ở khu bán ngập hoặc luân canh với lúa, có thời gian sinh trưởng ngắn (7 - 8 tháng), có thể trồng với mật độ cao hơn, khoảng 20.000 cây/ha (1 m × 0,5 m).
Để sắn có năng suất cao, cần quan tâm đến giống và kỹ thuật trồng. Ảnh: CIAT.
- Biện pháp canh tác
Quản lý nước, bón phân, cỏ dại và bố trí hệ thống canh tác hợp lý là các biện pháp kỹ thuật quan trọng nhằm nâng cao năng suất và tính bền vững trong sản xuất sắn. Đối với những vùng chủ động được nguồn nước và có điều kiện thâm canh, cần tưới bổ sung cho sắn bằng phương pháp tưới thấm theo rãnh, kết hợp làm cỏ, bón thúc và vun gốc vào các thời điểm 30-40 ngày, 50-60 ngày và 80-90 ngày sau trồng.
Có thể áp dụng tưới nhỏ giọt quanh gốc kết hợp phủ nilon tự hủy nhằm tiết kiệm nước, hạn chế cỏ dại và giảm công lao động. Việc quản lý độ ẩm đất cần được chú trọng thông qua hệ thống mương rãnh thoát nước, tránh ngập úng hay đọng nước cục bộ; đồng thời tưới nước hợp lý trong mùa khô giúp hạn chế nhện đỏ và rệp sáp gây hại.
Bón phân cho sắn phải căn cứ vào độ phì của đất, giống và mùa vụ, theo nguyên tắc cân đối và hợp lý. Ưu tiên sử dụng phân hữu cơ hoai mục hoặc phân hữu cơ vi sinh đã xử lý bằng chế phẩm sinh học như Trichoderma và vôi bột.
Tùy mức dinh dưỡng đất (giàu, trung bình hoặc nghèo), lượng phân khuyến cáo cho 1 ha dao động từ 90-160 kg N, 60-80 kg P₂O₅ và 120-160 kg K₂O, kết hợp 10 tấn phân chuồng hoai mục hoặc 2 tấn phân hữu cơ vi sinh.
Toàn bộ phân hữu cơ và phân lân được bón lót; phân đạm và kali chia làm hai lần bón thúc vào 30-40 ngày và 80-90 ngày sau trồng. Bón phân cần thực hiện khi đất đủ ẩm, tránh nắng gắt hoặc mưa lớn, và bón cách gốc 15-20 cm rồi lấp đất.
Quản lý cỏ dại được thực hiện bằng thuốc trừ cỏ tiền nảy mầm sau trồng 1-3 ngày, kết hợp làm cỏ thủ công hai lần vào 30-40 ngày và 80-90 ngày sau trồng, đồng thời bón thúc và vun gốc.
Trong trường hợp thiếu lao động, có thể dùng thuốc trừ cỏ chọn lọc, tránh phun vào lá non sắn. Về luân canh và xen canh, sau 2-3 vụ sắn nên luân canh với cây họ đậu, vừng hoặc ngô để cải tạo đất, không trồng xen các cây là ký chủ của bệnh khảm lá và chổi rồng. Có thể xen canh đậu phộng, đậu xanh, mè hoặc ngô giữa các hàng sắn, thu hoạch cây xen trước khi sắn khép tán.
Trong quá trình canh tác sắn, cần quan tâm đến nước, phân bón và làm cỏ. Ảnh: CIAT.
- Các biện pháp quản lý khác
Quản lý sâu bệnh hại trên cây sắn cần được thực hiện theo hướng tổng hợp, ưu tiên các biện pháp không hóa học nhằm bảo vệ môi trường và duy trì cân bằng sinh thái đồng ruộng.
Biện pháp vật lý tập trung vào việc cắt tỉa, loại bỏ kịp thời các bộ phận cây bị rệp sáp, bọ phấn hoặc bệnh virus gây hại nặng; thu gom và tiêu hủy triệt để bằng cách đốt hoặc chôn sâu các ổ bệnh, ổ rệp, hom giống nhiễm nặng, tránh để tồn dư mầm bệnh trên ruộng hay kênh rãnh.
Đồng thời, cần loại bỏ sớm những hom giống bị bệnh hoặc sinh trưởng kém ở giai đoạn đầu và sử dụng các loại bẫy dính, bẫy đèn để bắt côn trùng trưởng thành.
Biện pháp sinh học chú trọng bảo vệ và phát huy vai trò của thiên địch tự nhiên như ong ký sinh, bọ rùa, nhện bắt mồi thông qua việc hạn chế sử dụng thuốc hóa học khi chưa cần thiết.
Khuyến khích sử dụng các chế phẩm sinh học, thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc sinh học hoặc thảo mộc, bẫy dính màu vàng để vừa giám sát vừa hạn chế mật độ côn trùng gây hại. Ngoài ra, có thể sử dụng nấm Trichoderma để phòng trừ các bệnh có nguồn gốc từ đất.
Biện pháp hóa học chỉ được áp dụng khi đã sử dụng các biện pháp trên nhưng mật độ sâu bệnh vẫn vượt ngưỡng quy định (50-100%). Khi đó, cần sử dụng thuốc bảo vệ thực vật theo nguyên tắc “4 đúng” và tuân thủ danh mục thuốc được phép sử dụng tại Việt Nam, nhằm đảm bảo hiệu quả phòng trừ và an toàn cho sản xuất.
- Thu hoạch và bảo quản
Thu hoạch và bảo quản đúng kỹ thuật là khâu cuối cùng nhưng có ý nghĩa quan trọng đối với năng suất, chất lượng củ sắn và nguồn hom giống cho vụ sau.
Củ sắn cần được thu hoạch đúng thời điểm, phù hợp với chu kỳ sinh trưởng của từng giống, khi hàm lượng tinh bột đạt khoảng 27-30% hoặc khi cây đã rụng gần hết lá ngọn, lá chuyển từ xanh sang vàng nhạt. Thu hoạch có thể thực hiện bằng cơ giới, dụng cụ thủ công hoặc nhổ tay.
Sau thu hoạch, củ cần được vận chuyển nhanh đến cơ sở chế biến, tránh để lâu hoặc phơi nắng ngoài đồng vì sẽ làm giảm hàm lượng và chất lượng tinh bột.
Do sắn tươi khó bảo quản lâu, phương pháp bảo quản chủ yếu là phơi hoặc sấy khô để giảm độc tố và hạn chế nấm mốc, hoặc sơ chế thành các sản phẩm tinh như bột sắn. Trong sản xuất hiện đại, củ được làm sạch, cắt lát, sấy khô và đóng gói kín bằng túi polyethylen.
Đối với hom giống, cần thu hoạch từ ruộng sắn sạch bệnh, cây khỏe, đúng giống, ở tuổi 8-12 tháng. Chọn thân bánh tẻ, tránh phần gốc và ngọn, cắt hom dài 20-25 cm, có 5-7 mắt bằng dụng cụ sắc bén, cắt vát phần gốc để dễ nhận biết khi trồng.
Hom bảo quản ngắn ngày nên bó nhỏ, để nơi râm mát, khô thoáng; bảo quản dài ngày có thể chôn trong cát khô với độ ẩm thích hợp và kiểm tra định kỳ. Tránh để hom dưới nắng trực tiếp nhằm đảm bảo tỷ lệ nảy mầm cao.












