Học giả Nguyễn Hiến Lê (1912-1984) qua nét vẽ của Trần Thế Vĩnh.
Học giả Nguyễn Hiến Lê sinh ngày 8/1/1912 tại ngôi nhà số 4 ngõ Phất Lộc, Hà Nội. Sau khi tốt nghiệp Trường Công chánh Hà Nội niên khóa 1931-1934, Nguyễn Hiến Lê được bổ nhiệm làm công chức ở Sở Thủy lợi miền Nam. Ngày 19/1/1935, ông lên chuyến tàu từ ga Hàng Cỏ đến ga Sài Gòn, gắn bó cuộc đời và sự nghiệp với đất phương Nam.
Khởi nghiệp cầm bút từ... nghề đo nước
Khi được Sở Thủy lợi miền Nam giao nhiệm vụ đo mực nước khu vực ĐBSCL, Nguyễn Hiến Lê viết: “Sau khi đo khắp các tỉnh ở Hậu Giang, tôi được đo ngay tỉnh Đồng Tháp. Nằm trong một chiếc ghe bầu, tôi đã lênh đênh khắp các kinh, rạch từ Hồng Ngự tới Thủ Thừa, từ Cái Thia tới Mộc Hóa. Có khi đi trọn một tuần giữa một vùng bát ngát toàn lau, sậy, bàng, năng… mà hai ba chục cây số không có một nóc nhà, một bóng người. Sau sáu, bảy tháng như vậy, tôi có thể tự hào rằng rất ít người Việt, ngay cả những bạn miền Nam, được biết rõ cảnh Đồng Tháp như tôi”.
Vốn không có hoài bão cầm bút, Nguyễn Hiến Lê những lúc rảnh rỗi chỉ viết nhật ký riêng tư cho “nghề đốc công thủy lợi” theo ông tự nhận, kiểu như “Tôi lên bờ xét công việc coi nước. Trên các kinh rạch Đồng Tháp, Sở Thủy lợi miền Nam cho cắm hơn 20 cây đo nước, mỗi cây giao cho một người giữ. Bổn phận của họ là cứ mười lăm, hai mươi phút hoặc nửa giờ, một giờ một lần, đo mực nước trong kinh rạch ở trên thước rồi ghi vào một tờ giấy. Công việc ấy rất cần cho sự đào kinh. Chẳng hạn muốn đào con kinh từ A đến B và muốn cho nước kinh chảy từ A tới B, thì mực nước ở A luôn luôn phải cao hơn ở B. Nếu không đo trước mực nước, đào bậy bạ, gặp một chỗ mực nước cao hơn A, thì mực nước sẽ chảy dồn về A. Và đáng lẽ phải tháo nước ở A đi, thì ta lại làm cho A ngập nữa, nguy hại biết chừng nào”.
Năm 1944, Nguyễn Hiến Lê ra Hà Nội thi nâng ngạch kỹ sư thủy lợi, tình cờ gặp lại người bạn học cũ Vũ Đình Hòe (1912-2011, Bộ trưởng đầu tiên của Bộ Giáo dục Đào tạo) đang làm Chủ nhiệm Tạp chí Thanh Nghị. Khi nghe Vũ Đình Hòe đề nghị viết một tác phẩm phản ánh cuộc sống miền Nam, Nguyễn Hiến Lê thổ lộ ngay ý tưởng cuốn sách về Đồng Tháp Mười, bởi lẽ “sách địa lí chỉ nói về nó một hai hàng, mà lại đặt cho nó một cái tên khác là “Đồng Cỏ Lát”, nên nói đến Đồng Tháp thì mười người Việt, chưa chắc được một người biết”.
Vậy là, đúng năm 32 tuổi, Nguyễn Hiến Lê khởi nghiệp viết lách. Chỉ mất sáu tháng, ông hoàn thành cuốn sách 150 trang về Đồng Tháp Mười và gửi cho tòa soạn Thanh Nghị, như lời giao ước với Vũ Đình Hòe. Thế rồi, Cách mạng Tháng Tám bùng nổ, giao thông trắc trở. Trong hồi ký, Nguyễn Hiến Lê bộc bạch số phận tác phẩm đầu tay: “Sở Bưu điện ở Sài Gòn không nhận đồ bảo đảm ra Bắc nữa. Thế là đành sai hẹn với anh bạn, và bản thảo phải cất trong rương, đợi một cơ hội khác. Vì tôi chưa đủ tiền đem in, mà cũng chưa quen một nhà xuất bản nào. Thượng tuần tháng 10 năm 1945, tôi lại về Đồng Tháp Mười, tại nhà bác tôi. Một đêm, có sáu bảy tên cướp vào nhà, chủ ý là bắt cóc một ông điền chủ lớn đang lánh nạn trong nhà. Song, rủi cho chúng và rủi cho tôi, ông điền chủ lớn trốn thoát. Chúng đành vơ vét ít quần áo, mùng mền rồi ôm luôn cái va li của tôi đi. Thế là tập Đồng Tháp Mười mất ngay trong Đồng Tháp Mười. Tôi tiếc lắm. Vậy là tôi đã có cái duyên mới được bổ vào làm ở cánh Đồng Tháp rồi gặp bà con ở đó, nên mới biết rõ được nó. Lại có cái duyên bạn một ông chủ bút trọng lịch sử và địa lí Việt Nam, nên mới hăng hái viết về cánh đồng ấy”.
Cuốn sách chất chứa tình cảm của Nguyễn Hiến Lê dành cho Nam bộ. Ảnh: TL.
Sau nhiều bôn ba chìm nổi, đầu năm 1954, Nguyễn Hiến Lê ngồi viết lại cuốn sách bị lấy mất, đặt tên là “Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười”. Tích lũy thực tế của một kỹ sư thủy lợi được ông thể hiện rất rõ qua mỗi trang: “Chiều ngang từ Hồng Ngự tới Tân An khoảng 120 cây số, hơn từ Hà Nội tới Hải Phòng. Chiều dọc từ Cao Lãnh tới Svay Riêng khoảng 70 cây số, bằng từ Hà Nội tới Việt Trì. Tính ra khoảng 8.000 cây số vuông, tức 800.000 mẫu Tây (nếu kể cả khu giữa hai sông Vàm Cỏ thì non một triệu mẫu Tây). Mỗi mẫu Tây bằng ba mẫu ta ở miền Bắc. Như tại Sơn Tây, một tỉnh trung bình không nghèo, không giàu, gia đình nào được ba mẫu ta đã là có “máu mặt”. Tại nhiều làng, nhà nào giàu nhất chỉ có năm, sáu mẫu ta. Vậy 800.000 mẫu Tây của cánh đồng có thể phân phát cho 800.000 gia đình, mà mỗi gia đình trung bình có 4 người (2 vợ chồng, 2 con), thì Đồng Tháp có thể nuôi được 3 triệu người, một phần ba dân số miền Bắc”.
Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười - Một tài liệu tham khảo có giá trị về Nam bộ
Di sản Nguyễn Hiến Lê rất đồ sộ. Hơn 100 tác phẩm của ông mở rộng trên nhiều lĩnh vực, từ văn học, sử học, triết học đến ngôn ngữ, giáo dục, du ký… Thế nhưng, “Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười” vẫn là một dấu son trên hành trình sáng tạo Nguyễn Hiến Lê. Bởi lẽ, “Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười” không chỉ gói ghém buồn vui của ông suốt một thập niên (1935-1945) phục vụ ở Sở Thủy lợi miền Nam, mà còn cung cấp một lượng kiến thức đáng kể cho thế hệ sau tìm hiểu phong thổ Tây Nam bộ.
Trong chuyện hôn nhân, hai mối lương duyên vợ chồng của Nguyễn Hiến Lê đều có "nguồn cơn" liên quan đến con người và công việc thủy lợi.
Những ghi chép về phương Nam trong văn chương quốc ngữ, có bốn cuốn sách có giá trị tham khảo đặc biệt, “Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười” của Nguyễn Hiến Lê xuất bản năm 1955 xếp ngang hàng với “Một tháng ở Nam kỳ” của Phạm Quỳnh (1892-1945) xuất bản năm 1919, “Hà Tiên thập cảnh” của Đông Hồ (1906-1969) xuất bản năm 1960 và “Nửa tháng trong miền Thất Sơn” của Nguyễn Văn Hầu (1922-1995) xuất bản năm 1970.
Đọc “Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười”, chắc ai cũng nhận ra dấu vết chuyên môn của tác giả: “Tới địa phận Việt Nam, sông Mê Kông chia làm hai nhánh Tiền Giang và Hậu Giang. Mặc dù có hai nhánh mà tới mùa mưa, nước lũ đổ xuống nhiều tới nỗi có khi nước ở Long Xuyên dâng lên một ngày hai, ba tấc. Nếu không có Biển Hồ ở Cao Miên và Đồng Tháp Mười làm hai cái hồ chứa mênh mông, thì lưu lượng của sông Mê Kông còn thất thường hơn nữa. Hai hồ chứa ấy có công dụng: Khi nước sông lên, nước tràn vào hồ, nên nước lên bớt mau. Trái lại, khi nước xuống, nước trong hồ chảy ra sông nên nước xuống cũng bớt gấp. Nhờ vậy mà Cao Miên và miền Nam, tuy năm nào cũng lụt, mà không bị tai nạn mấy”.
Bằng trình độ một kỹ sư thủy lợi, Nguyễn Hiến Lê phân tích: “Lụt ở Đồng Tháp Mười không đáng sợ như lụt ở miền Bắc và miền Trung. Dân miền này đã tổ chức cách sinh hoạt để thích nghi, cất nhà sàn, trồng lúa sạ. Vì vậy không ai tán thành sự đắp đê ở đây. Cứ để nước sông Cửu Long ra vào tự nhiên trong đồng, như vậy có lợi là rửa bớt phèn và bồi thêm ruộng. Nước sông Cửu Long ít phù sa hơn nước sông Nhị, song mỗi năm cũng đem được một lớp phù sa vào đồng, làm cho phì nhiêu thêm. Vì tất cả những lẽ ấy, sự đắp đê ở đây không thành một vấn đề”.
“Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười” còn giúp người đọc hôm nay hình dung được việc hình thành kênh rạch liên quan đến nhịp điệu lao động thuở xưa của cư dân miệt đồng: “Nhiều con kinh không phải đào. Trước khi nước rút gần cạn, người ta cho một đàn trâu lội đi trước, và đẩy vài chiếc tam bản theo sau. Bùn còn ướt, vẹt ra hai bên, thành một lòng kinh nông. Liên tiếp vài mùa như vậy là thành kinh”.
Học giả Nguyễn Hiến Lê ở Long Xuyên năm 1980. Ảnh: TL.
Một tấm gương trí thức tận tụy và thanh cao
Khi hoàn thành bản viết lại “Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười” vào ngày 15/4/1954, học giả Nguyễn Hiến Lê có dòng ghi chú “Tôi mong rằng đọc xong cuốn này, đồng bào Trung, Bắc hiểu đồng bào miền Nam hơn. Và hết thảy chúng ta đoàn kết, tương thân tương ái nhau hơn”. Năm 1972, học giả Nguyễn Hiến Lê được vinh danh vì những đóng góp văn hóa, ông đã từ chối số tiền thưởng tương đương 25 cây vàng, với lý do “tôi chỉ làm đúng chức phận của tôi, số tiền này xin dành giúp đỡ các nạn nhân chiến tranh”.
Đón nhận sự cưu mang của miền Nam, học giả Nguyễn Hiến Lê hồi đáp bằng sự ân cần khi nghĩ về đất đai trìu mến: “Cảm tưởng của tôi bây giờ không chắc đúng, khí hậu ở đây dễ chịu, đời sống dễ dàng và con người thì dễ thương. Sở dĩ con người dễ thương có lẽ cũng vì đời sống dễ dàng và khí hậu dễ chịu. Không phải phấn đấu kịch liệt với thiên nhiên, với đồng loại mà người miền Nam cũng đủ ăn, ít khi phải lo tới ngày mai, nên tính tình chất phác, thuần hậu, nhân từ. Nhưng, cũng vì hoàn cảnh quá thuận lợi mà người ta không biết phòng xa, không chịu gắng sức. Phải, khí hậu và kinh tế ảnh hưởng đến con người rất nhiều, nhất là kinh tế. Tôi e rằng chẳng bao lâu nữa, khi những vùng hoang vu như Đồng Tháp Mười cũng quá chật chội vì dân đông, khi cả miền Nam đã thành đất cũ như miền hạ du sông Nhị, sự mưu sinh sẽ vất vả, đời sống sẽ eo hẹp thì tính tình con người cũng biến đổi”.
Từ một kỹ sư thủy lợi chuyển sang làm nhà giáo rồi miệt mài với nghiệp viết lách, học giả Nguyễn Hiến Lê luôn tâm niệm: “Chỉ nên hưởng cái phần xứng đáng với tài đức của mình thôi. Nếu tài đức tầm thường mà được phú quý, hoặc được nhiều người ngưỡng mộ, thì thế nào cũng mang họa vào thân”. Trước khi nhắm mắt xuôi tay ngày 22/12/1984, học giả Nguyễn Hiến Lê gửi gắm một tin yêu cho cộng đồng: “Hồi trẻ, quan niệm của tôi về hạnh phúc là được tự do, độc lập, làm một công việc hữu ích mà mình thích, gia đình êm ấm, con cái học được, phong lưu một chút, đừng giàu. Nhưng hồi qua 50 tuổi, tôi thấy bấy nhiêu chưa đủ, cần thêm điều kiện này nữa: sống trong một xã hội lành mạnh, ổn định và tương đối thịnh vượng”./.
Học giả Nguyễn Hiến Lê quen thuộc với công chúng nhiều thế hệ. Hơn 100 tác phẩm chắt chiu trong 72 năm cuộc đời của ông đã góp phần nuôi dưỡng trí tuệ và tâm hồn hàng triệu độc giả. Vừa là tác giả vừa là dịch giả, những cuốn sách tiêu biểu của Nguyễn Hiến Lê mà người Việt Nam không còn xa lạ, có thể kể đến “Đắc nhân tâm”, “Quẳng gánh lo đi mà vui sống”, “Rèn nghị lực”, “Tương lai trong tay ta”, “Nguồn gốc văn minh”, “Con đường hòa bình”, “Làm con nên nhớ”, “Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam”, “Đại cương văn học sử Trung Quốc”, “Kinh Dịch đạo của người quân tử”…














