
Học giả Trần Văn Giáp (1898-1973) và bìa sách “Lược sử về khoa cử Việt Nam”.
Học giả Trần Văn Giáp là một trong những thành viên sáng lập Hội Truyền bá Quốc ngữ vào năm 1938. Theo tài liệu của Viện Sử học, học giả Trần Văn Giáp tự Thúc Ngọc, sinh ngày 13/10/1898, mất ngày 25/11/1973 tại Hà Nội.
Theo học chữ Hán từ thuở nhỏ, sau đó chuyển sang học tiếng Pháp, học giả Trần Văn Giáp bắt đầu làm việc tại Trường Viễn Đông Bác Cổ từ năm 1916, khi tròn 18 tuổi. Năm 1927, ông du học Pháp, hoàn thành luận án “Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên đến thế kỷ 13”. Năm 1932, ông hồi hương, chuyên nghiên cứu lịch sử và ngữ văn cổ trung đại Việt Nam cho Trường Viễn Đông Bác Cổ. Từ Cách mạng Tháng Tám 1945, ông tham gia kháng chiến và dạy học. Từ năm 1954, ông có thêm một số công trình như “Lược truyện các tác gia Việt Nam”, “Phong thổ Hà Bắc thời Lê”, “Tìm hiểu kho sách Hán Nôm”…
“Lược sử về khoa cử Việt Nam” được học giả Trần Văn Giáp giới thiệu lần đầu tiên vào năm 1941, đề cập phép thi văn, phép thi võ, cách xếp đặt trong trường thi, các quan trường và thí sinh… Học giả Trần Văn Giáp trình bày quan điểm khoa cử đặt ra cốt để kén chọn nhân tài cho Nhà nước. Khoa cử nung đúc cái chí của con người ta cho được cầu tiến. Vào đời xưa, phàm những người muốn tiến thân, đều phải nỗ lực học hành đặng bước vào đường khoa cử, tiến tới ngưỡng cửa quan quyền. Do đó, đối với nước nhà thì khoa cử là phép lựa nhân tài, đối với kẻ sĩ thì là con đường tiến thân vinh hoa, rộng mở.

Lược sử về khoa cử Việt Nam” được học giả Trần Văn Giáp giới thiệu lần đầu tiên vào năm 1941. Ảnh: Sách Việt.
Khảo chú cuốn sách ra đời trước mình hơn bốn thập niên, nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc An (sinh năm 1984 tại An Giang) chia sẻ: “Theo biến động của lịch sử và thời cuộc, đầu thế kỷ 20, nước ta hoàn toàn rơi vào tay thực dân Pháp, thể chế hành chánh, chính trị, quân sự, xã hội hết thảy đều như bị lật tung lên để cơ cấu lại. Thiết chế quân chủ bị phá vỡ, những gì thuộc về quá khứ lỗi thời dần bị thay thế.
Trong một thời đại mọi thứ đều phải cải cách, cải lương, thì khoa cử với nội hàm thuộc về cơ chế cũ cũng không ngoại lệ, nó đã bị hủy bỏ để thay thế bằng một nền học mới (tân học). Về sau, chữ Quốc ngữ thay thế chữ Hán, chữ Nôm. Thế hệ sau biết chữ Hán, chữ Nôm càng ít dần. Những tư liệu Hán Văn, chữ Nôm xưa giờ ít người đọc và hiểu được. Dần dà, những văn hóa, văn hiến Việt Nam dần bị rơi vào tình thế đứt gãy tư liệu lịch sử, dễ rơi vào lãng quên… khi thể chế cũ sụp đổ”.

Cuốn sách về khoa cử Việt Nam thời phong kiến qua phiên bản khảo chú. Ảnh: NXB.
Sự kế thừa từ học giả Trần Văn Giáp đến nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc An giúp công chúng hôm nay có được góc nhìn tương đối đầy đủ về khoa cử của thế hệ tiền nhân. Khoa cử là vấn đề hệ trọng trong tổ chức xã hội thời quân chủ phong kiến ở nước ta nói riêng và khu vực Đông Á nói chung, bao gồm các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc… Có thể nói, những quốc gia nằm trong vành đai chữ Hán đều noi theo lối khoa cử để tuyển lựa hiền tài.
Nước ta tham gia vào trường khoa cử rất sớm, Kể từ đời nhà Tần, đời nhà Hán ở Trung Quốc, người Nam ta đã sớm dấn thân vào con đường khoa hoạn (thi đỗ và làm quan) nhưng thời kỳ đó chúng ta chưa thực được độc lập nên còn phụ thuộc, nền khoa cử thực sự chưa có lề lối quy chuẩn.
Xét về lịch sử, nước ta mở khoa thi đầu tiên vào đời nhà Lý, năm Ất Mão, niên hiệu Thái Ninh đời vua Lý Nhân Tông (1075) gọi tên là khoa Minh kinh bác học. Đó chính là khởi đầu cho khoa cử ban văn của nước ta, để các đời sau này noi theo mà làm nên một nền khoa cử hùng hậu trải ngót ngàn năm. “Lược sử về khoa cử Việt Nam” tái hiện không khí trường thi ngày xưa, thông qua khoa cử từ khởi thủy cho đến năm 1918.
Kỳ thi phổ biến lúc bấy giờ có thể kể đến là kỳ Thi Hương, tất cả những sĩ tử ở các châu, huyện trong một tỉnh hay nhiều tỉnh cùng thi ở một tỉnh lị nào đó để kén chọn lấy người học giỏi, rồi lại cùng thi ở kinh đô với những người học giỏi ở các tỉnh khác. Người trúng tuyển thi Hương thường gọi theo thời là cống tử, cử nhân.
“Lược sử về khoa cử Việt Nam” cho thấy nước ta có thi văn và thi võ. Khoa thi văn thứ nhất nước ta có từ năm Thái Ninh (Ất Mão, 1075) đời vua Lý Nhân Tông, gọi tên là khoa Minh kinh bác học. Với thi võ có trễ hơn. Năm Chính Long thứ 8 (Bảo Ứng, 1170) đời Lý Anh Tông, vua thường ra tập bắn trường bắn ở phía Nam kinh thành, khi tập có bắt các quan võ thường ngày phải đua nhau tập học phép công thủ, lối bày trận. Đến đời vua Trần Thái Tông có chọn những người có dũng lực mà hiểu võ nghệ cho làm Thượng đô Túc vệ. Kỳ thực, đến đời Lê Thái Tổ mới đặt thể lệ thi võ, tới đời Bảo Thái (1720-1728) sau Lê Trung Hưng mới đặt hẳn khoa thi.
Ở thời đại nào cũng thế, con người học tập và rèn giũa đạo đức để cùng chung tay nâng cao chất lượng xã hội, còn khoa cử là để tìm ra hiền tài phụng sự đất nước, giúp dân chúng ấm no và hạnh phúc. Ngày nay, trong nền giáo dục hiện đại, “khoa cử” có thể hiểu rộng ra là con người tham gia “học tập suốt đời” để tự trang bị kiến thức đáp ứng nhiều lĩnh vực sản xuất và sáng tạo khác nhau.