Nhịp cầu kết nối chính sách - doanh nghiệp - tri thức - hành động
Sáng 10/11/2025, tại Hà Nội, Viện Kinh tế Việt Nam và Thế giới (Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) tổ chức Diễn đàn “Thực hiện kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam: Chính sách và kết nối hành động”. Sự kiện nhằm thúc đẩy quá trình chuyển đổi sang mô hình kinh tế tuần hoàn (KTTH), góp phần hiện thực hóa cam kết phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 của Việt Nam.
GS.TS. Lê Văn Lợi, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam cho biết, KTTH giúp giảm phụ thuộc vào tài nguyên, cắt giảm phát thải, nâng hiệu suất sử dụng năng lượng và vật liệu, đồng thời mở ra các chuỗi giá trị mới mang tính bền vững. Ảnh: Ban tổ chức.
Phát biểu khai mạc, GS.TS. Lê Văn Lợi, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, nhấn mạnh KTTH không chỉ là “khái niệm thời thượng” mà là kiến trúc phát triển mới của Việt Nam trong tiến trình chuyển đổi kép - vừa chuyển đổi số, vừa chuyển đổi xanh. Theo ông, mô hình này giúp giảm phụ thuộc vào tài nguyên, cắt giảm phát thải, nâng hiệu suất sử dụng năng lượng và vật liệu, đồng thời mở ra các chuỗi giá trị mới mang tính bền vững.
GS.TS. Lê Văn Lợi cho rằng Quyết định số 222/QĐ-TTg ngày 23/1/2025 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện KTTH đến năm 2035 là bước đi chiến lược cụ thể hóa các mục tiêu trong Luật Bảo vệ môi trường 2020, Chiến lược tăng trưởng xanh và Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu. “Diễn đàn hôm nay không chỉ là nơi trao đổi học thuật, mà còn là nhịp cầu kết nối chính sách - doanh nghiệp - tri thức - hành động, góp phần hình thành hệ sinh thái tuần hoàn toàn diện tại Việt Nam”, ông nhấn mạnh.
Tại Diễn đàn, các chuyên gia tập trung phân tích lộ trình thực hiện Kế hoạch hành động quốc gia đến năm 2035, đồng thời chỉ rõ vai trò trung tâm của cơ chế Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) trong quản lý tài nguyên và chất thải.
Từ góc nhìn nông nghiệp, các nhà khoa học cho rằng KTTH cần được phát triển dựa trên nội lực, tận dụng khoảng 150 triệu tấn phụ phẩm nông nghiệp mỗi năm để hình thành chu trình giá trị khép kín, kết hợp công nghệ sinh học và tri thức bản địa, hướng tới nền nông nghiệp carbon thấp và sinh thái bền vững.
TS. Lại Văn Mạnh, Viện Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và Môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), nêu rõ: “KTTH là quá trình kéo dài vòng đời sản phẩm, giảm phát thải, nhưng quan trọng hơn cả là nhận diện vai trò và chức năng của từng chủ thể trong hệ thống để có giải pháp liên kết thúc đẩy. Chính sách cần hướng tới tư duy thiết kế: thiết kế lại hệ thống sản xuất, khu công nghiệp, thậm chí cả mô hình phát triển địa phương theo hướng phục hồi và tái tạo”.
Biến KTTH trở thành động lực phát triển
Theo nghiên cứu của TS. Triệu Thanh Quang, Viện Địa lý Nhân văn và Phát triển bền vững, mỗi năm ngành trồng trọt Việt Nam tạo ra 95-98 triệu tấn phụ phẩm, trong đó riêng rơm và trấu từ sản xuất lúa chiếm khoảng 52 triệu tấn. Tuy nhiên, chỉ khoảng 50% lượng rơm rạ được tái sử dụng, phần còn lại bị đốt bỏ gây lãng phí và phát thải khí nhà kính.
Diễn đàn “Thực hiện kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam: Chính sách và kết nối hành động” quy tụ hơn 200 đại biểu gồm các chuyên gia, nhà khoa học, đại diện các Bộ, ngành, tổ chức quốc tế, doanh nghiệp tiên phong trong lĩnh vực năng lượng, môi trường, sản xuất xanh. Ảnh: Ban tổ chức.
Các mô hình tái sử dụng phụ phẩm như sản xuất nấm rơm, ép viên sinh khối, ủ compost vi sinh đã chứng minh hiệu quả trong việc tăng thu nhập cho nông dân, giảm chi phí đầu vào và giảm phát thải. Việc nâng tỷ lệ tái sử dụng phụ phẩm nông nghiệp được xem là cơ hội lớn để hình thành chuỗi giá trị nông nghiệp tuần hoàn.
Ở lĩnh vực chăn nuôi, mỗi năm Việt Nam tạo ra hàng chục triệu tấn chất thải rắn và lỏng, phần lớn chưa được xử lý hiệu quả. Nhiều mô hình “nông trại tuần hoàn” đang tận dụng chất thải làm nguyên liệu sản xuất phân bón hữu cơ và khí sinh học (biogas), giúp giảm phát thải methane và nâng cao hiệu quả tài nguyên.
Trong lâm nghiệp, ngành chế biến gỗ tạo ra khoảng 8,6 triệu m³ phụ phẩm mỗi năm, song mới chỉ 15% được tái chế. Việc tận dụng nguồn phụ phẩm này không chỉ giúp giảm phát thải mà còn mở hướng phát triển năng lượng tái tạo và vật liệu sinh học mới. Còn trong lĩnh vực thủy sản, khoảng 1 triệu tấn phụ phẩm mỗi năm có thể trở thành nguồn nguyên liệu mang lại hàng tỷ USD nếu được chế biến thành chitin, chitosan, dầu sinh học, protein thủy phân hoặc phân bón hữu cơ.
TS. Triệu Thanh Quang cho biết, Việt Nam sở hữu nguồn sinh khối dồi dào trên 150 triệu tấn mỗi năm, song tỷ lệ tái chế trung bình mới đạt 40-50%. Việc đẩy mạnh KTTH trong nông nghiệp không chỉ giúp giảm phát thải khí nhà kính, giảm chi phí sản xuất, mà còn tạo động lực cho sinh kế nông thôn và đóng góp quan trọng cho mục tiêu phát thải ròng bằng “0”.
Ông nhấn mạnh, KTTH chỉ thực sự đi vào đời sống khi người dân, hợp tác xã và doanh nghiệp thấy được lợi ích kinh tế cụ thể. “Cần biến mô hình tuần hoàn trở nên gần gũi, dễ áp dụng để người dân cảm thấy họ có thể làm được, từ đó tự nguyện tham gia”, ông nói.
Ở góc nhìn đô thị, TS. Nguyễn Thị Hạnh Tiên, Khoa Công nghệ Sinh học, Hóa học và Kỹ thuật Môi trường (Đại học Phenikaa), chia sẻ kết quả mô hình phân loại và xử lý rác hữu cơ tại thành phố Tuy Hòa, giúp giảm khoảng 18% tổng lượng rác thải đô thị. Tuy nhiên, việc duy trì mô hình thu gom - xử lý tập trung còn gặp nhiều khó khăn do thiếu xe chuyên dụng, nhân lực vận hành và thị trường tiêu thụ sản phẩm compost.
Bà cho rằng tỷ lệ phân loại rác tại nguồn thấp, hạ tầng thu gom chưa đồng bộ và thiếu cơ chế thị trường cho sản phẩm tái chế là những rào cản lớn trong quá trình hiện thực hóa KTTH ở các đô thị Việt Nam.
Ở góc độ hoạch định chính sách, TS. Nguyễn Sỹ Linh, Trưởng Ban Biến đổi khí hậu (Viện Chiến lược, Chính sách Nông nghiệp và Môi trường), cho biết các văn bản pháp luật hiện đã quy định rõ trách nhiệm của các Bộ, ngành, song việc triển khai còn gặp khó do thiếu tiếp cận hệ thống.
Ông đề xuất cần xác định rõ 2 nhóm doanh nghiệp trong hệ sinh thái tuần hoàn: nhóm cung cấp đầu vào và dịch vụ cho KTTH, cùng nhóm trực tiếp thực hiện hoạt động tuần hoàn. “Muốn doanh nghiệp tham gia, Nhà nước cần ban hành danh mục ưu tiên và cơ chế hỗ trợ rõ ràng, thể hiện lợi ích cụ thể để họ chủ động đầu tư”, TS. Nguyễn Sỹ Linh nhấn mạnh.

![Doanh nghiệp kiến tạo tương lai xanh: [Bài 2] Giảm 'ô nhiễm trắng'](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/256w/files/tungdd/2025/11/07/5100-1-nongnghiep-135056.jpg)









![Doanh nghiệp kiến tạo tương lai xanh: [Bài 2] Giảm 'ô nhiễm trắng'](https://t.ex-cdn.com/nongnghiepmoitruong.vn/480w/files/tungdd/2025/11/07/5100-1-nongnghiep-135056.jpg)











