| Hotline: 0983.970.780

Người của U Minh

Thứ Hai 08/12/2025 , 14:31 (GMT+7)

An Giang Tự bao giờ, Mười Đởm đã là một thực thể của U Minh. U Minh không chỉ là rừng, là ruộng vườn, là hệ sinh thái, mà còn là máu thịt của ông.

Công việc nào cũng gắn với rừng

Mười Đởm (Bành Văn Đởm) hẹn tôi tại nhà riêng của ông, căn nhà nằm gần bìa rừng, trong vùng đệm Vườn quốc gia U Minh Thượng. Ở cái tuổi 96 nhưng nom ông vẫn tráng kiện, ánh mắt tinh anh, đặc biệt là đầu óc vô cùng mẫn tiệp.

Ông Mười Đởm, được ví như cuốn từ điển sống về vùng đất U Minh, nơi ông cả đời gắn bó và chứng kiến trọn vẹn sự đổi thay của vùng đất đặc biệt này. Ảnh: Trung Chánh.

Ông Mười Đởm, được ví như cuốn từ điển sống về vùng đất U Minh, nơi ông cả đời gắn bó và chứng kiến trọn vẹn sự đổi thay của vùng đất đặc biệt này. Ảnh: Trung Chánh.

Trên bàn làm việc kê sát chiếc giường cá nhân, tôi để ý thấy có nhiều tài liệu, danh hiệu, bằng khen, huân huy chương... Và một cuốn sách tựa đề “Người của rừng” - cuốn truyện ký mà trong đó, ông là nhân vật chính. Nhưng, đúng như tên gọi, truyện không viết nhiều về đời tư mà xoay quanh những việc ông đã làm, đã trải qua, một bức chân dung được phác thảo bằng chất liệu rừng.

Năm 2002, khi rừng U Minh Thượng xảy ra cháy lớn, Mười Đởm như người mất hồn, vật vã trong cảm giác đau đớn. Đơn vị khi đó phải cử người "canh chừng" ông, mỗi lần ông lao vào rừng để dập lửa là lập tức có đoàn đi theo đảm bảo an toàn.

Không phải ngẫu nhiên mà người đời gọi Mười Đởm là “Người của rừng”. Cách nay 96 năm - năm 1929, cậu bé Bành Văn Đởm được sinh ra ngay trong rừng tràm U Minh. Chỉ riêng việc ấy đã như sự sắp đặt của định mệnh gắn ông với khu rừng này. Nếu ai có hỏi gì thêm, ông vẫn khẳng định chắc nịch như gốc tràm có bộ rễ cắm qua bốn tầng đất: “Tôi đã sống trọn vẹn cuộc đời mình xuyên thế kỷ với rừng U Minh. Khi mãn phần, tôi cũng chọn gửi lại tấm thân cho rừng”.

Cuộc đời Mười Đởm là một cuốn ký sự bằng xương bằng thịt về U Minh, từ ngày kháng chiến, rừng còn úng phèn, hoang vu… cho tới hôm nay lúa, tôm đầy đồng. Ông nhớ từng đường rạch, con kênh, vạt tràm, bãi sậy. Ông bảo: “Rừng U Minh dày, nước sâu, phèn nặng… hiểm trở với người lạ nhưng là chỗ nương náu của bộ đội, của dân làng. Những năm kháng chiến chống Pháp rồi chống Mỹ, rừng U Minh là căn cứ địa quan trọng, là “tấm áo giáp” cho cách mạng”.

17 tuổi, Bành Văn Đởm tham gia cách mạng, làm giao liên, rồi được cấp trên cử đi học. Cũng nhờ thông thạo địa hình rừng nên sau khi hoàn thành khóa huấn luyện và trở về địa phương chuyên trách hướng dẫn quân sự cho lực lượng mới, Mười Đởm đã nhiều lần dẫn bộ đội cắt đường rừng, phục kích các đoàn quân của thực dân Pháp đi càn, rồi bất ngờ từ trong rừng lao ra đánh cho chúng tan tác.

Nhiều bằng khen, huân chương, danh hiệu, biểu trưng... - dấu ấn của cả cuộc đời cống hiến được ông lưu giữ, trân trọng như những tài sản quý. Ảnh: Trung Chánh.

Nhiều bằng khen, huân chương, danh hiệu, biểu trưng... - dấu ấn của cả cuộc đời cống hiến được ông lưu giữ, trân trọng như những tài sản quý. Ảnh: Trung Chánh.

30 năm tham gia kháng chiến, Mười Đởm hoạt động ở nhiều vị trí quan trọng, góp phần xây dựng nhiều cơ sở mật trong lòng địch, lập nhiều chiến công mà theo ông, công việc nào cũng gắn với rừng, liên quan đến rừng, chiến công nào cũng nhờ rừng.

Đất nước hòa bình, nhiều người giã rừng thì ông xin ở lại. 

Đã từng là công an ấp, rồi phó công an xã, rồi công an huyện. Có thời gian, đảng viên Bành Văn Đởm làm trong Đội trị an, bảo vệ và giúp việc đồng chí Lê Đức Anh (sau này là Chủ tịch nước) hoạt động ở vùng rừng U Minh. Ông cũng từng được Nhà nước cử đi Liên Xô học bổ túc Cao Đẳng chuyên ngành Trại giam tại Moskva, sau được phong hàm Đại tá, làm Giám thị Trại giam Kênh làng Thứ Bảy (thuộc Bộ Công an). Rồi cuộc đời "xô đẩy" đưa Mười Đởm về với nông nghiệp.

Những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ trước, trong vai trò Phó Ban kiến thiết vùng lúa An Biên theo chủ trương của Bộ Nông nghiệp lúc bấy giờ, Mười Đởm đã góp công lớn hình thành các Nông trường An Thái, An Hòa, An Thạnh, An Hưng, tạo nơi sản xuất cho người dân địa phương và đón lực lượng làm kinh tế mới từ các tỉnh phía Bắc vào lập nghiệp. Các nông trường này đã khai mở vành đai ngoài của rừng U Minh từ vùng đất hoang hóa thành vườn dừa, liếp khóm và những cánh đồng lúa bạt ngàn sau này.  

Khi nông trường thành hình và đi vào hoạt động ổn định, Mười Đởm được công an xin lại ngành và tiếp tục làm Giám thị Trại giam Kênh làng Thứ Bảy đến năm 1996 thì nghỉ hưu.

Mỗi khi được hỏi về những đổi thay của vùng đất rừng U Minh, ký ức được khơi lại, ông Mười Đởm lại hồ hởi kể. Ảnh: Trung Chánh.

Mỗi khi được hỏi về những đổi thay của vùng đất rừng U Minh, ký ức được khơi lại, ông Mười Đởm lại hồ hởi kể. Ảnh: Trung Chánh.

“Thiết kế" lại rừng U Minh, mở ra thiên đường sản xuất hữu cơ

Đại tá công an Bành Văn Đởm tự nhận mình là người tham việc, bởi ông nghỉ hưu khá trễ, khi tuổi đã gần “thất thập cổ lai hy”. Thế nhưng, cầm cuốn sổ hưu chưa kịp nóng tay, ông lại nhận lời với Tỉnh ủy Kiên Giang, làm Trưởng ban Quản lý rừng đặc dụng và phòng hộ U Minh Thượng. 

Làm thế nào để có giải pháp quản lý rừng bền vững, bảo vệ, bảo tồn, phát huy các giá trị của rừng trước yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo sinh kế lâu dài cho người dân? Câu hỏi ấy thôi thúc ông đi tìm lời giải trong bài toán quy hoạch, "thiết kế" lại rừng U Minh.

Từ thiết kế của ông Bành Văn Đởm, hàng chục năm qua, không một tấc đất, rừng nào ở U Minh Thượng bị xâm lấn. Cái hay của dự án là rừng "sống" được, người dân "sống" được trong sự cộng sinh bền vững tự nhiên.

Bắt tay vào nhiệm vụ, ròng rã mấy năm trời, Bành Văn Đởm băng rừng, lội sình lầy đi kiểm tra, đo vẽ. Sau nhiều ngày ăn ngủ trong rừng, một bản phác thảo bản đồ rừng gồm 2 lớp, vùng lõi là tứ giác hơn 8.000ha và vùng đệm khoảng 13.000ha bao quanh như lớp giáp bảo vệ được hình thành.

Chỉ vào tấm bản đồ Vườn quốc gia U Minh Thượng có hình tứ giác không đều, ông lý giải: “Nếu cần một khu rừng vuông vức cho đẹp mắt thì chỉ cắm ranh cho máy vào múc là xong, nhưng tôi muốn giữ lại toàn bộ diện tích có lớp than nhiều nhất. Bởi than bùn không chỉ là tài nguyên thiên nhiên rất quý, mà còn là đặc trưng của rừng tràm U Minh”.

Theo lời Mười Đởm, nếu để mất lớp than bùn là coi như mất rừng. Than bùn rừng U Minh được kiến tạo bởi 4 tầng: trên cùng là lớp thực vật sống, dưới là lớp mùn tràm, rồi đến lớp than bùn mềm và cuối cùng là lớp than bùn cứng dưới đáy. Cũng theo ông, rừng U Minh có thảm thực vật rất phong phú, trong đó tràm nước là loài cây chiếm ưu thế. Khi những cây tràm già chết đi, bị chôn vùi, phân hủy trong lòng đất hàng trăm năm trong điều kiện yếm khí đã hình thành nên lớp than bùn, một loại tài nguyên tự nhiên không tái tạo, có giá trị rất cao cả về môi sinh, khoa học và kinh tế.

Màu nước đỏ thẫm đặc trưng của rừng tràm trên đất than bùn, là nơi sinh sôi của các loài cá đồng và là nguồn nước mát nuôi sống bao thế hệ gắn bó với rừng. Ảnh: Trung Chánh.

Màu nước đỏ thẫm đặc trưng của rừng tràm trên đất than bùn, là nơi sinh sôi của các loài cá đồng và là nguồn nước mát nuôi sống bao thế hệ gắn bó với rừng. Ảnh: Trung Chánh.

Người ta ví mỏ than bùn ở U Minh như cục bông xốp khổng lồ, là kho tàng tích trữ nước ngọt cho cả vùng. Khi những cơn mưa trút xuống, chính là lúc rừng U Minh khởi động hành trình tích trữ hàng triệu mét khối nước ngọt dưới lớp than bùn cho mùa khô năm sau, không chỉ để giữ cho rừng khỏi bén lửa, mà còn là nguồn sinh thủy nuôi sống con người, phát triển sinh kế.

"Người dân nào ở U Minh cũng biết, khi đi rừng mà thiếu nước thì chỉ cần khoét một hố sâu xuống lớp than bùn, nước từ đất sẽ rịn ra. Còn nữa, nước ở vùng này có màu đỏ thẫm, ấy là do nước mưa thấm qua lớp lá tràm rụng phân hủy trên mặt đất rồi ngấm vào than bùn. Thứ nước đỏ đặc trưng ấy là môi trường sống lý tưởng của các loài cá đồng. Trong chiến tranh, anh em chúng tôi gọi đó là nước trà. Nước uống là nước trà, nấu cơm cũng bằng nước trà, tắm giặt cũng bằng nước trà, sang lắm”, ông nhớ lại.   

Khi việc thiết kế vùng lõi đã xong, Mười Đởm tiếp tục tham gia làm Trưởng Ban dự án mô hình kinh tế nông hộ vùng đệm U Minh Thượng. Ông là người đã hiến kế đào 21 tuyến kênh quanh vùng đệm, vừa hình thành kênh dẫn nước đồng thời hình thành tuyến đường giao thông để di dân vào đây sinh sống. Mỗi hộ dân vào đây được cấp cho diện tích 4ha liền canh, liền cư, được hỗ trợ kinh phí đào mương lên liếp, vừa trồng rau màu, cây ăn trái, sản xuất lúa và nuôi thủy sản để phát triển kinh tế.

Một trong 21 tuyến đường kênh trong vùng đệm Vườn quốc gia U Minh Thượng được ông Mười Đởm hiến kế đào đắp để đưa dân vào sinh sống, phát triển kinh tế, tạo lớp bảo vệ vòng ngoài giúp giữ rừng hiệu quả. Ảnh: Trung Chánh.

Một trong 21 tuyến đường kênh trong vùng đệm Vườn quốc gia U Minh Thượng được ông Mười Đởm hiến kế đào đắp để đưa dân vào sinh sống, phát triển kinh tế, tạo lớp bảo vệ vòng ngoài giúp giữ rừng hiệu quả. Ảnh: Trung Chánh.

Ông nhớ lại: “Khi xây dựng vùng đệm, tôi áp dụng cả nghiệp vụ công an, tâm lý tội phạm học vào đây. Bởi muốn xâm nhập vào rừng để phá hoại trước hết phải đi qua nhà, ruộng vườn của người dân. Chính người dân sẽ là rào cản, là tai mắt báo cho lực lượng bảo vệ rừng phía trong. Những hộ dân đầu tiên được đưa vào đây cũng được lựa chọn kỹ, chứ không khéo chọn thợ vào phá rừng thì hỏng hết việc”.

U Minh là khu rừng rộng lớn nhất miền Tây Nam bộ, được chia tách làm đôi bởi dòng sông Trẹm, một bên là Vườn quốc gia U Minh Thượng (thuộc tỉnh An Giang), một bên là U Minh Hạ (thuộc tỉnh Cà Mau). Ngoại trừ vùng lõi được bảo vệ nghiêm ngặt, còn vùng đệm và khu vực bao quanh được chuyển đổi thành rừng kinh tế, sản xuất nông nghiệp.

Là vùng đất chưa bị con người tác động nhiều, đặc biệt là lớp đất mặt giàu dinh dưỡng được tích tụ hàng trăm năm trên nền đất rừng U Minh nên nơi đây được xem là thiên đường sản xuất hữu cơ. Khoảng 30 năm trở lại đây, vùng đất này đang chuyển mạnh sang sản xuất tôm - lúa, một mô hình được cho là thông minh, thích ứng với biến đổi khí hậu. “Đất này sinh ra để làm tôm - lúa”, ông Mười Đởm khẳng định và cho biết thêm “Mùa mưa thì rửa phèn, trồng lúa, mùa nắng cho nước mặn vào nuôi tôm. Tự nhiên nó hợp, nó hài hòa với nhau, không ép buộc”.

Vùng rừng U Minh rộng lớn trước đây, nay là thiên đường sản xuất hữu cơ, nổi bật là mô hình lúa hữu cơ, tôm sinh thái, mang lại hiệu quả cao. Ảnh: Trung Chánh.

Vùng rừng U Minh rộng lớn trước đây, nay là thiên đường sản xuất hữu cơ, nổi bật là mô hình lúa hữu cơ, tôm sinh thái, mang lại hiệu quả cao. Ảnh: Trung Chánh.

Tự bao giờ, ông đã là một thực thể của U Minh. U Minh không chỉ là rừng, là ruộng vườn, là hệ sinh thái, mà còn là máu thịt của ông. Ông đau nỗi đau của rừng, vui nỗi vui rừng được bảo vệ, hồi sinh, hạnh phúc khi trong sự hồi sinh ấy có bức tranh sinh kế hôm nay với những cánh đồng lúa hữu cơ, vuông tôm sinh thái đạt chuẩn quốc tế, được chế biến xuất khẩu đi khắp nơi, kể cả thâm nhập các thị trường khó tính nhất trên thế giới.

Nhiều năm nhận làm thêm công việc của người giữ rừng nhưng ông Mười Đởm không nhận bất cứ đồng thù lao nào mà sống bằng chính tiền lương hưu của mình. Ông coi đó là nghĩa vụ, là cách “đền ơn trả nghĩa với rừng” trọn vẹn nhất.

Từ các giải pháp, sáng kiến phục hồi, phát triển, quản lý rừng bền vững hiệu quả; đặc biệt là triển khai trồng thành công hàng nghìn ha rừng, thiết kế, thực hiện dự án mô hình kinh tế nông hộ vùng đệm; nhân rộng vành đai sản xuất ngoài rừng..., năm 1999, ông Bành Văn Đởm được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới.

Xem thêm
Hai xe va chạm trên cao tốc Bắc - Nam khiến 5 người thương vong

QUẢNG TRỊ Sáng 8/12, xe đầu kéo tông xe tải trên cao tốc Bắc - Nam khiến 2 người chết, 3 bị thương, giao thông ùn tắc nghiêm trọng.

Bình luận mới nhất

Người của U Minh
Phóng sự 7 giây trước