Nó tự nhiên như mùi của má. Nó - cảm giác ấy sau khi biết thế nào là cơm với cá thì đứa bé mới nghe thấy nó. Và rồi thành ký ức, Nó ghim sâu dưới đáy của kho Nhớ rồi ở đó, mãi mãi. Nó là những câu thơ như thể ca dao Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa/Miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương.
Thời đàn bà làm sạch răng miệng bằng cau và trầu. Khi đứa con cai sữa, những cữ trầu của người mẹ giãn ra, để ngày ba bữa nhai cơm đút cho con, như chim mẹ đưa thức ăn trôi vô họng chim non. Sau này khi biết cầm muỗng cầm đũa, đứa bé nhớ rằng những bụm cơm của má thơm thơm ngọt lịm. Cơm với cá, cái mùi ấy có cả mùi củi lửa. Và mùi của má, toàn bộ nhau cuống, tâm tư tâm hồn và tính mạng của mình khi chiu chắt đứa con.
Tranh lụa "Bữa cơm ngày mùa thắng lợi" của họa sĩ Nguyễn Phan Chánh.
Mùi cơm. Gạo đã trắng hơn gạo thời
ông bà cha mẹ của má xay bằng tay và giã bằng cối đá. Gạo thời của bầy con má ra đời đã là lúa chứa trong bao chở bằng ghe tam bản ra chợ giao cho nhà máy xay xát. Mùi vỏ trấu tung bay, mùi cám dành cho gia súc gia cầm và gạo tuôn ra ống càng thơm. Về tới nhà, má vô bếp thì cơm trên bếp củi, bấy giờ mới là mùi của thanh sạch, sâu sắc, ấm no. Luôn luôn cái mùi ấy, quấn quýt, trong từng tế bào, dần dà cô bé đã biết định nghĩa rằng, đó là hương vị, là nếp sống, là tầng nền văn hóa của con dân Lúa nước.
Mạ xanh một cách lạ kỳ. Cỏ non của Nguyễn Du rợn chân trời, cô bé khi ấy đã thuộc Nguyễn Du và Nguyễn Đình Chiểu thì lại thấy khoảnh khắc xanh của mạ đột ngột hơn vì chúng ngắn ngủi hơn. Những trự trâu đen bóng, cây bừa, tiếng khiển trâu trên những mẫu ruộng lấp xấp để cắm những giẽ mạ xuống. Thêm lũ cò trắng điểm xuyết, vẻ trưa nồng hay hoàng hôn đều đáng để thổn thức. Cô bé rất dễ mềm lòng với mạ, vì chúng khởi đầu, cánh đồng đã thực sự sinh động rồi sẽ là những nhịp sinh sôi, lúa thẳng đứng, lúa đòng đòng và lũ cá và lũ nhái no nê. Lúa câu liêm, trăng bắt đầu thanh hơn khi mùa mưa nói lời giã biệt. Mùa vàng, người ta gọi là mùa cắt lúa mùa thu hoạch là mùa vàng bước ra từ sách giáo khoa. Vàng thực thể, vàng sung túc. Khỏi mô tả cũng có thể hình dung khắp nơi vào những ngày cuối năm rộn ràng ấy. Lúa nhiều ứ hự, rơm rạ dồn đống, mùi cá nướng trui xen vào không gian cùng mùi trâu thở dốc. Và mùi của giòn giã những tràng cười đàn ông đàn bà trai gái trong tiếng nhạc Hoàng Thi Thơ từ những chiếc radio made in Japan mà nhà nào cũng để ở hàng hiên cho chòng chành những đêm thu vén lúa vô bồ ở chái nhà.
Cơm gạo mới khó nấu nhưng nấu giỏi thì cơm không bị nhão và bị khét. Má hay chắt nước khi cơm đang sôi để làm canh khi không rảnh để đi hái rau vườn. Cơm này ăn với cá kho, đủ thứ cá trong mùa đồng cạn, cá bị mắc kẹt trong những vũng nước bé tí là niềm vui bất tận của trẻ con. Cá lóc cá trê cá rô, cả những con cá trắng thuộc họ có vảy thường tung tăng trên bến sông nữa. Chỉ cần cơm gạo mới và cá kho là nhà nhà mãn nguyện.
Tranh "Hạt gạo làng ta" của Nguyễn Huy.
*
* *
Đã xa rồi thời con trâu, mẫu ruộng hẹp và mỗi năm chỉ một mùa dài. Nhà nông trẻ là thế hệ thứ ba của người từng cơm búng để nuôi con - những chàng những nàng của thế kỷ 21 không chấp nhận còng lưng với đám mạ và cấy gặt bằng tay. Máy móc và máy móc. Người viết bài này đi châu Âu năm 2010, ngỡ ngàng trước những cánh đồng lúa mì chỉ có đôi ba người và những cỗ máy đánh đống hết thảy rạ để mang về cho gia súc và cho nhiệt điện tự túc. Ngất ngây mơ và mơ, bao giờ thì người nông dân lúa nước chúng ta sẽ sai khiến máy móc như họ?
Những cái chớp mắt thần kỳ. Không tin ở mắt mình khi hiện ra bên cửa kính ô tô những cánh đồng Sóc Trăng, Bạc Liêu, Xà No, Rạch Giá, Long Xuyên. Trên trời dưới lúa. Đuổi sát nút danh vị gạo Thái Lan và chỉ một mục tiêu ấy thôi. Những ai đã lặng thầm làm nên hạt gạo Việt Nam mà dân đô thị như cô bé nhớ mùi cơm búng của má không hay biết và không hình dung kịp? Những ai đã làm nên Cuộc chạy ngoạn mục này? Người các nước nhìn vào bảo đó là sự kiên cường Việt Nam. Không sai, dân tộc này kiên cường mà chính con dân nước nhà cũng không nghĩ mình đã kiên cường đến vậy. Bền bỉ làm, cắm cúi làm, đồng thuận làm, và đã làm được: Một cường quốc lúa gạo sau 30 năm ngặt nghèo.
*
* *
Tôi được các con tiếp cho gạo ST25 chính hiệu Sóc Trăng từ 5 năm nay. Không còn tồn tại cảnh những sạp hàng trong chợ bán lẻ gạo rời. Các cửa hàng gạo ở các khu dân cư có những bao gạo xếp tận trần, ngốt ngát. Dễ chừng hơn mười loại gạo ở những nơi như thể cái xó này. Dừng lại hỏi thì được nghe một tràng dài từ đôi vợ chồng tự tin hết biết: “Ghé coi đi cô, ST25, ST24, Tám xoan Hải Hậu, còn thơm thì có Hương Lài, Nàng Xuân, Nàng Sen, Mai Vàng, Bắc Hương, gạo rẻ thông dụng có Tài Nguyên, BC Thái Bình, gạo gốc Thái. Hay cô cần gạo hữu cơ 66 ngàn đồng một ký? Tụi cháu cũng có nếp cái Hoa vàng nữa nè cô”. Ôi trời, sướng ù cả tai và hoa cả mắt!
Những ai thực quý, tôi thường chia sẻ với họ những bao gạo ST25 từng 2 ký một, bao bì mỹ mãn. Thời công nghiệp hóa, quà quê là gạo sạch gạo cao cấp, nghĩ không gì “sang” hơn. Một giáo sư trẻ người Mỹ gốc Việt kêu thật lòng trong bữa cơm ở nhà tôi “Gạo gì mà ngon cơm quá trời vậy cô?” Khi biết đây đích thị là gạo của Ông Cua, cậu ấy kêu tiếp “Trời, cũng ST25 cháu mua bên Mỹ khác hẳn!” Tôi nghĩ bụng, chắc bị hàng nhái, nghĩ chứ không buột miệng nói ra. Tôi bảo sẽ tặng, xách nổi bao nhiêu tùy ý. Giáo sư trẻ hai tay hai bao vừa vặn, mãn nguyện lắm lắm. Bốn ký thì ăn được mấy chốc, rồi có thể lại gặp Ông Cua giả bên kia trời, ôi thương!
Bức tranh lớn nhất Việt Nam được làm từ chất liệu gạo ST25.
*
* *
Cảm giác bữa cơm với cá như ngày thơ bé. Gạo sạch từ nồi cơm vừa mở nắp, xộc vào mũi mùi ân sủng như thể của thánh thần. Ăn từng miếng nhỏ với cá đồng kho tiêu. Nhớ má, dĩ nhiên, và nhớ những lời dạy: hạt cơm là hạt ngọc, không để rơi vãi không để dính chén khi buông đũa. Cảm giác thanh bình tràn trong huyết quản, Việt Nam ta đó, gạo ăn không hết, gạo cho người khó ở Gaza, gạo cho bạn cố nhân, gạo cho người đói ở lục địa đen, cho hào sảng mà kho vựa của ta vẫn đầy. Nhìn người lính của Quân đội hôm nay, nó làm họ sáng bồng và thẳng tắp, quân và dân, cùng làm ra và cùng tự tin bảo vệ đất đai của xứ sở lúa nước trứ danh này.
Bỗng dưng nhớ những người bán vé số dạo. Sài Gòn có hơn 4.000 người bán vé số dạo và cả miền Nam thì có 200.000 người. Tôi nói với các bạn quốc tế, rằng Vì sao Việt Nam chúng tôi không có homeless (người vô gia cư), các bạn biết không? Vì vé số là giải pháp tình thế của nhiều thập kỷ, niềm hy vọng đáng yêu hàng ngày của người thu nhập thấp; duy trì giải pháp ấy để cho những người yếm thế nhất có một việc là bán vé số dạo. Cho sinh nhai mỗi ngày, họ đều có cơm ăn và áo mặc, những khu nhà trọ rẻ tiền là chỗ trú thân và… và đó là sự cộng sinh ở đô thị Việt chúng tôi để người nghèo không phải ngủ ở ghế đá công viên hay ở gầm cầu như thế kỷ trước.
Búng cơm của chính mình, nghĩ và nghĩ, niềm vui No Ấm là có thật, trên dải đất từng quá nhiều thương tích này.






















