Sông Kiến Giang trong ngày hội đua thuyền mừng Tết Độc lập 2/9
Sinh ra ở đâu mà ai cũng anh hùng
Tất cả trả lời sinh bên một dòng sông
(Bế Kiến Quốc)
Tôi không phải nhà thơ, chưa được anh hùng, nhưng cũng sinh ra bên một dòng sông, con sông đẹp nhất…thế giới. Tuổi thơ ai cũng nghĩ thế, những gì thân thuộc với mình đều “nhất”. Sông Kiến Giang bắt nguồn từ chân núi Quan Độ trong dãy Trường Sơn, chảy hướng Tây Đông, gặp núi An Sinh lại trở hướng Nam Bắc qua châu thổ đồng bằng Lệ Thủy (Quảng Bình) quê tôi, phình ra thành phá Hạc Hải (biển cạn) mênh mông vạn khoảnh (Lê Quý Đôn) lại đổi hướng Đông Tây, nhập với dòng Long Đại thành sông Nhật Lệ chảy ra biển.
Tuổi thơ có dòng sông là hạnh phúc “Tắm cả đời tôi” ( Tế Hanh), lưu dấu bao kỉ niệm, chiều hè trăng vi vu tiếng sáo trúc, tiếng lá dừa, tàu cau cọ xạc xào. Nơi ấy có mối tình đầu không may bị “đánh rơi”. Thuở trước, con sông là con đường, cư dân đôi bờ lưu thông bằng đò dọc đò ngang. Ngày thường dậy từ tối đất, cơm no, liềm hái xuống thuyền ra đồng, ra bãi, lên rừng. Ngày hợp hôn, cô gái làng mang áo cưới, pháo nổ, họ hàng tiễn sang ngang để lại ngẩn ngơ cho trai làng.
Phút lâm chung, con đường về thế giới bên kia cũng bằng thuyền, chèo nhịp đưa linh ngược sông lên vùng gò đồi yên nghỉ. Nơi thượng nguồn Kiến Giang, những ngày đầu tái chiếm Lệ Thủy, để trả thù du kích, quân viễn chinh Pháp đã lùa 361 thường dân lên cầu Mỹ Trạch, lấy dây thép gai trói xả đại liên giết sạch, thây trôi máu đỏ dòng sông. Hai năm sau, tháng 5 năm 1950, hai Tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 48, Đại đoàn Bình - Trị - Thiên chôn giặc ở Xuân Bồ đầu cầu phía nam, đánh tan trung đoàn Spahi, rặt lính Âu Phi thiện chiến “Hoan hô chiến thắng Xuân Bồ/500 giặc Pháp không mồ vùi thây”
* * *
Hơn 900 năm trước, năm 1069, vua Lý nam chinh và Lý Thường Kiệt tiên phong bắt sống vua Chiêm Chế Củ. Vua Chiêm dâng 3 châu: Bố Chinh, Địa Lí, Ma Linh để chuộc mạng, châu Địa Lí là đất 2 huyện Quảng Ninh, Lệ Thủy lưu vực sông Kiến Giang ngày nay. Trong nửa đầu thiên niên kỷ có ba cuộc di dân lớn từ Hoan Ái (Thanh Hóa - Nghệ An) và các tỉnh phía Bắc vào, thường cập cửa Nhật Lệ, ngược sông lên tả hữu Kiến Giang khai canh lập ấp, định cư theo họ tộc, nay còn lưu dấu trong địa danh hành chính: Ngô Xá, Mai Xá, Phan Xá, Hoàng Giang,…
Dân cư lưu vực sông nay đã trên 20 vạn với nhiều nhân vật ấn tượng: Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh định vị đất phương Nam, Quận Công Hoàng Hối Khanh (cuối triều Trần) lập huyện Nha Nghi (Lệ Thủy); thống đốc quân vụ đại thần Hoàng Kế Viêm với 2 trận Cầu Giấy bất hủ; Đại tướng Võ Nguyên Giáp đánh Pháp đuổi Mỹ. Và, cả ông tổng thống họ Ngô lầm đường lạc lối cũng quê hữu ngạn Kiến Giang.
* * *
Năm 1960, dân cư hai bờ sông nô nức vào hợp tác xã nông nghiệp, làm ăn tập thể, sáng sáng chiều chiều thuyền bè dập dìu chở xã viên đi cấy, gặt. Trúng mùa vài vụ, dân tình no đủ, hò khoan giã gạo tập văn nghệ, bến sông hò hẹn, đêm trăng trai gái đôi bờ dẩu môi hò đối đáp, nên vợ nên chồng.
Cuối năm 1964, không lực Mỹ bắt đầu gầm thét, bom rơi, đạn bắn vào làng, xuống sông, thủy lôi lập lờ, nổ, người chết, thuyền tan, sông ngầu máu. Nhưng đêm đêm những đội thuyền vận tải vẫn ngược sông chở vũ khí, lương thực lên Trường Sơn, vào nam, đôi bờ quân vẫn đi như nước chảy. Trai gái lên đường nhập ngũ, vào thanh niên xung phong, trên bến sông đầy thuyền quay lái, lên huyện theo dòng quân đi, để lại bóng mẹ già, con dại, vợ yếu bên bờ…hóa đá vọng phu.
Đầu năm 1973, hiệp định Pa-ri có hiệu lực. Trong lần giáp chiến cuối cùng ở Quảng Trị, tôi bị thương, được chuyển ra bắc Bến Hải, xuống thuyền xuôi dòng Kiến Giang. Mới ngừng bắn, dân tình hai bờ sông từ hầm trú ẩn “ngoi” lên chuẩn bị đón tết Quý Sửu. Qua lớp băng kín mặt, kín đầu, tôi nhìn thấy mạ tôi ngồi rửa lá bánh ở bến sông. Thương mạ, sợ bà hoảng sợ tôi nén chặt tâm can không gọi, cô đơn lang thang qua vài quân y viện. Một trưa hè khô khốc, tôi về quê trên đôi nạng gỗ đi dọc bờ sông buồn vui lẫn lộn. Nam Bến Hải súng còn tiếp tục nổ, âm âm vọng về.
* * *
Dẫu dòng đời có biến màu, có xô dạt thì con sông quê tôi, làng tôi, bến sông tôi và kỉ niệm ngày tôi xuôi đò thấy mạ bên bến sông mà không dám gọi vẫn đẹp nhất thế gian - một thế gian mà tôi từng thấy.
Mười sáu tuổi, học trường huyện, trái tim đã biết xao xuyến với cái eo lưng, mái tóc huyền bên kia sông. Rồi, chiến tranh loạn ly, tôi nhập ngũ. Chiếc đò chở trai làng lên huyện có cờ xí rùng rinh trống kèn cổ động. Em chạy theo trên bờ, nấp sau thành xe tải quân sự trao tôi chiếc khăn thêu đôi chim bồ câu và một lời hẹn chờ ngày chiến thắng... Ôi! Ngày chiến thắng đến, nhưng mãi 10 năm sau, xuân sắc có thì, em lấy chồng phương xa, bỏ lại một lời hẹn ước trên bến sông!
Cứ đến ngày Quốc khánh 2/9, Lệ Thuỷ lại nổi sóng trên sông Kiến Giang đón Tết Độc lập. Ngày hội đua thuyền được diễn ra từ sáng đến tối. Từ già đến trẻ áo quần mới đổ ra bến sông, trên bờ để xem đua thuyền. Con em ở xa cũng tranh thủ về thăm quê, thăm mạ. Mạ tôi cứ ra tận ngõ đón con cháu về, nước mắt chứa chan trên gò má nhăn nheo vì tuổi tác nhưng sáng bừng lên niềm hạnh phúc.
Mạ cầm lấy tay tôi lắc nhẹ kể lại chuyện hôm ở bến sông mạ không thấy thằng Tường trên đò xuôi về Đồng Hới, nơi cuối sông Nhật Lệ để lên xe đi trạm an dưỡng. Răng mà mạ thấy nóng ruột lắm... Bây chờ Tường viết văn, làm báo giỏi rồi. Mấy đứa em sau ni, đứa mô cũng theo đò về tận cuối dòng sông để từ đó ra đi khắp nước. Mỗi khi về quê xem hội đua thuyền là mang niềm hạnh phúc về cho mạ.
* * *
Sinh ra ở đâu…!? Không phải anh hùng, không là thi sĩ nhưng may mắn thay tôi cũng sinh bên một dòng sông. Dòng Kiến Giang - dẫu qua bao bấn loạn nhưng tuyệt nhiên không đổi dòng.