Hào khí Lam Sơn
Lam Sơn - Lam Kinh là vùng đất thiêng “địa linh nhân kiệt”, quê hương của người anh hùng dân tộc Lê Lợi, nơi phát tích cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đánh đuổi giặc Minh trong mười năm đầy gian khổ (1418-1427) cũng là nơi an nghỉ vĩnh hằng của các vua, thái hoàng, thái hậu triều Lê Sơ.
Cuộc khởi nghĩa do người anh hùng dân tộc Lê Lợi khởi xướng và lãnh đạo nổ ra vào mùa xuân năm 1418, tại núi rừng Lam Sơn. Chứng kiến sự tàn ác của giặc Minh đối với nhân dân ta khi chúng "nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn/vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ" khiến Lê Lợi "ngẫm thù lớn há đội trời chung/căm giặc nước thề không cùng sống". Đúng ngày mùng 2 tết năm Mậu Tuất (1418), từ vùng rừng núi thiêng Lam Sơn, Lê Lợi tự xưng Bình Định vương cùng với các anh hùng, hào kiệt dựng cờ khởi nghĩa, quyết đánh đuổi giặc Minh khỏi bờ cõi nước ta.
Trong 10 năm nếm mật nằm gai, trải qua hàng trăm trận đánh sinh tử với kẻ thù, với nghệ thuật quân sự "lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh "tại Hội thề Đông Quan (1427) anh hùng dân tộc Lê Lợi đã buộc giặc Minh phải rút quân về nước. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã hoàn toàn thắng lợi "xã tắc do đó vững bền/non sông từ đây đổi mới"
Ngày 15/4/1428 âm lịch, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế ở Đông Đô (Thăng Long - Hà Nội) lấy niên hiệu Thuận Thiên, đặt tên nước là Đại Việt, mở ra một vương triều trịnh trị, hưng vượng bậc nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam - vương triều Hậu Lê kéo dài 360 năm.

Ngọ Môn Lam Kinh - cổng đón tiếp trước khi vào sân Chầu. Ảnh: Thanh Tâm
Năm 1430, Lê Lợi cho đổi tên vùng đất Lam Sơn thành Lam Kinh. Năm 1433 Lê Thái Tổ băng hà và đưa về quê hương Lam Sơn an táng tại Vĩnh Lăng. Từ đây, Lam Kinh trở thành khu Sơn lăng.
Kế nghiệp vua Lê Thái Tổ, vua Lê Thái Tông sau khi lên ngôi tiếp tục cho xây dựng điện Lam Kinh. Ban đầu điện Lam Kinh được xây dựng với quy mô nhỏ, tính chất chủ yếu là khu Sơn Lăng (nơi an táng, thờ cúng tổ tiên và các vua, Hoàng hậu thời Lê Sơ). Sau này để phục vụ cho Hoàng tộc mỗi khi về thăm quê hương, bái yết sơn lăng, qua thời gian, điện Lam Kinh dần được mở rộng về quy mô, to lớn và bề thế.
Gần sáu thế kỷ trôi qua với nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử đất nước, sự khắc nghiệt của thiên nhiên, Lam Kinh bị xuống cấp nghiêm trọng thành phế tích.
Năm 1994, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định 609/QĐTTg phê duyệt Dự án tổng thể tu bổ, phục hồi, tôn tạo di tích lịch sử Lam Kinh. Đặc biệt, ngày 27/9/2012, Khu di tích lịch sử Lam Kinh được công nhận là Di tích Quốc gia đặc biệt.
Khu di tích Quốc gia đặc biệt Lam Kinh ngày nay được quy hoạch với tổng diện tích 200ha, là địa chỉ lưu giữ nhiều giá trị lịch sử, văn hóa thiêng liêng, là biểu tượng của lòng tự hào dân tộc về một giai đoạn lịch sử oai hùng chống quân xâm lược và xây dựng quốc gia Đại Việt. Hiện nay, sau khi thực hiện mô hình chính quyền địa phương 2 cấp, Khu di tích thuộc địa bàn xã Lam Sơn và xã Kiên Thọ (Thanh Hóa)
Về thăm Lam Kinh, chúng ta càng tự hào về truyền thống lịch sử cha ông, về hào khí Lam Sơn và công lao của Hoàng triều Lê tộc.
Những công trình ấn tượng
Giếng cổ Lam Sơn trong khuôn viên Khu di tích. Tương truyền giếng có từ thời cụ Lê Hồi (cụ nội của Lê Lợi) cách ngày nay trên 700 năm. Kết quả nghiên cứu khảo cổ học cho thấy, để tạo thành giếng, người xưa đã đắp ngăn đoạn suối chảy từ Tây sang Đông để lấy nước ăn uống sinh hoạt hàng ngày cho hàng nghìn gia nhân trong nhà. Khi Lam Kinh trở thành Điện miếu, giếng vẫn được sử dụng dụng phục vụ sinh hoạt hàng ngày, phía Bắc có bậc lên xuống gọi là bến nước. Giếng được tu bổ, tôn tạo năm 2003.

Giếng cổ Lam Sơn. Ảnh: Thanh Tâm
Trong khu di tích Lam Kinh còn có nhiều cây có tuổi đời hàng trăm năm. Nổi tiếng nhất là cây Đa - Thị. Đây là một trong những cây cổ thụ lớn nhất ở Lam Kinh, mọc lên ở giữa thành nội phía Tây Nam sân Rồng. Không rõ từ bao giờ, cây đa phát triển ôm trọn cây thị trở thành một gốc hai ngọn vừa đa vừa thị, mùa nào quả nấy, nên nhân địa phương gọi là cây Đa - Thị. Năm 2007, cây thị chết chỉ còn lại cây đa. Theo các nhà nghiên cứu, cây đa có khoảng 300 tuổi. Năm 2013 cây Đa - Thị được Hội Bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt Nam công nhận là cây di sản. Năm 2016, từ góc bên phải cây đa lại mọc lên một cây thị, người ta gọi đó là hồi sinh.

Du khách thích thú chiêm ngưỡng Cây di sản Đa - Thị tuổi đời 300 năm. Ảnh: Thanh Tâm
Ấn tượng nhất trong khu di tích Lam Kinh là Chính điện Lam Kinh, một công trình kiến trúc gỗ, có quy mô lớn nhất ở đây. Chính điện được làm lễ phạt mộc (khởi công phục dựng) năm 2010 và chính thức hoàn thành vào ngày khai hội Lam Kinh năm 2017. Tòa điện này được dựng trên nền móng cũ có diện tích 1.780m2. Đây là một trong những công trình có mức đầu tư lớn và nhiều kỳ công trong nghiên cứu khảo cổ học, kiến trúc, nghệ thuật cho khớp với kiến trúc thời Lê.

Hương án Hội đồng tại điện Quang Đức thuộc Chính điện Lam Kinh được thiết kế tinh xảo và mạ vàng. Ảnh: Thanh Tâm
Chính điện là công trình bề thế, mang nhiều ý nghĩa lịch sử, mỹ thuật cung đình - biểu trưng cho tài năng và đức độ của vua Lê Thái Tổ tỏa rạng thiên hạ (Quang Đức), đề cao tôn sùng đạo hiếu (Sùng Hiếu), đặc biệt là khát vọng vun đúc, kéo dài sự tốt lành cho vương triều, quốc gia Đại Việt (Diễn Khánh). Chính điện được tu bổ sử dụng tới hơn 2.000m3 gỗ lim và hàng chục thợ lành nghề. Hệ thống hoa văn kiến trúc cột, mái, bình phong, vật dụng bên trong không chỉ cho thấy sự kỳ công, khéo léo của người thợ, mà còn là sự phản ánh đầy đủ và chân thực vẻ đẹp kiến trúc cung đình thời Lê.

Chính điện Lam Kinh. Ảnh: Thanh Tâm
Hướng dẫn viên Ban quản lý Di tích Quốc gia đặc biệt Lam Kinh cho biết, năm 2009, khi khởi công dự án phỏng dựng Chính điện Lam Kinh, cây lim cổ thụ cao nhất rừng Lam Kinh, khoảng 600 năm tuổi đang xanh tốt, bất ngờ rụng hết lá, khô cành. Nửa năm sau cây chết, đúng lúc thiết kế thi công Chính điện Lam Kinh vừa hoàn thành.
Khi chặt hạ, đường kính thân cây là 82cm, trùng khít với chân đế đá cột cái Chính điện xưa để lại. Ngọn cây khoảng 0,65cm vừa với chân tảng cột quân, hai nhánh cây đủ làm một cột góc và một thượng lương.
Vì thế, khi đưa vào công trình, cây lim được định vị là cột cái trong công trình, đặt trong Hậu điện (nơi nghỉ ngơi của vua), là chốn linh thiêng hạn chế người ra vào. Khi dựng 138 cột trong Chính điện, cột cái được dựng lên đầu tiên, cạnh long sàng - như canh giấc ngàn thu cho vua Lê Lợi.

Cây Lim "hiến thân" trong Hậu điện. Ảnh: Khu di tích Lam Kinh
Cũng theo hướng dẫn viên, Ban quản lý khu di tích Lam Kinh nhiều lần trồng cây lim nhỏ thay thế vào gốc cũ, nhưng không sống được.
Những sự trùng hợp về kích thước này được đồn đoán rằng, dường như cây lim sinh ra để thực hiện sứ mệnh của 600 năm sau, đó là phỏng dựng lại cung điện cho hậu thế.
Phía sau Chính điện là Thái Miếu. Chín tòa Thái Miếu có kích thước gần vuông, diện tích các tòa tương đối gần bằng nhau từ 180m2 – 220m2 xếp theo hình cánh cung ôm lấy Chính điện Lam Kinh. Thái Miếu là nơi thờ cúng các vua Thái hoàng, Thái hậu triều đại Hậu Lê. Từ 2005 đến nay đã phục hồi tôn tạo 5 tòa, theo kiến trúc thời Lê Trung Hưng bằng gỗ lim, mái lập ngói mũi hài, nền lát gạch bát giã cổ, vách đố lụa, cửa bức bàn.

Có 5 tòa Thái Miếu đã được tôn tạo. Ảnh: Thanh Tâm.
Trong Khu di tích Lam Kinh còn có Bia Vĩnh Lăng, được xếp hạng là bảo vật quốc gia ngày 30/12/20213. Bia Vĩnh Lăng là một trong những tấm bia đẹp nhất Việt Nam cả về mỹ thuật và kỹ thuật. Bia Vĩnh Lăng ghi lại thân thế, sự nghiệp, công trạng của vua Lê Thái Tổ - là một công trình điêu khắc đá nghệ thuật quý giá về nhiều lĩnh vực, có ý nghĩa lớn lao trong kho tàng di sản văn hóa Việt Nam thời Lê Sơ còn đến ngày nay. Đến nay, tại di tích quốc gia đặc biệt Lam Kinh có 5 bia ký được công nhận là bảo vật quốc gia.

Bia Vĩnh Lăng là một trong những tấm bia đẹp nhất Việt Nam. Ảnh: Thanh Tâm
Phục dựng những giá trị truyền thống
Mới đây, UBND tỉnh Thanh Hóa vừa phê duyệt dự án tu bổ, phục hồi và tôn tạo nhiều hạng mục quan trọng; trong đó có 4 tòa Thái Miếu, sẽ được phục dựng trên nền cũ, mỗi tòa có quy mô một tầng, kết cấu khung gỗ lim, mái lợp ngói mũi hài phục chế, nền lát gạch bát theo mẫu cổ. Kết cấu vì kèo “chồng rường giá chiêng”, vách gỗ đố lụa, cửa thượng song hạ bản... đều tái hiện nguyên bản tinh thần kiến trúc triều Lê thế kỷ XV.

Các cổ vật được trưng bày ở điện Diễn Khánh. Ảnh: Thanh Tâm
Hạng mục đền thờ Bà Hàng Dầu cũng sẽ được tôn tạo lại. Tương truyền, thời vua Lê Lợi chuẩn bị khởi nghĩa, ông đã chọn một ngọn núi ở đất Lam Sơn cho quân đêm đêm đốt đèn làm dấu để chứng tỏ tinh thần quật cường, cũng là để cho nghĩa sĩ bốn phương biết hướng mà tìm về tụ nghĩa nên gọi là đèn chiêu quân. Núi vì thế được gọi là núi Thắp Đèn, tồn tại đến ngày nay.
Người phụ nữ cung cấp dầu thắp đèn cho nghĩa quân Lam Sơn không rõ tên họ là gì, chỉ biết rằng bà là người ở dưới xuôi, thường lên vùng rừng núi Lam Sơn bán dầu nên thường gọi là bà Hàng Dầu. Thấy bà là người trung nghĩa đáng tin, Lê Lợi đã giao cho bà nhiệm vụ cung cấp, tiếp tế dầu. Nhằm giữ bí mật, Lê Lợi chỉ cho nghĩa quân nhận dầu từ bà.
Hàng ngày, bà Hàng Dầu vừa gánh dầu đi bán vừa dò xét động tĩnh của quân Minh nên mỗi lần chúng tổ chức càn quét truy lùng, nghĩa quân đều biết trước để đối phó. Về sau giặc đâm nghi ngờ bà có liên hệ với quân Lam Sơn nên đón đường bắt giữ, đem về doanh trại tra khảo rất dã man nhưng người phụ nữ đó vẫn kiên gan bền chí, quyết không hé răng lấy một lời. Không khai thác được gì, bọn giặc đã giết chết bà. Nghe tin ấy, Lê Lợi vô cùng cảm động xót xa, ông đã đổi tên núi Thắp Đèn thành núi Dầu để tưởng nhớ tấm lòng yêu nước của người phụ nữ ấy.
Sau khi quét sạch giặc Minh, Lê Lợi lên ngôi, nhớ công của bà Hàng Dầu trong những ngày đầu khởi nghĩa, vua sai lập đền thờ Bà Hàng Dầu và dặn dò rằng sau này vua mất, phải làm lễ giỗ Lê Lai trước ngày giỗ vua và giỗ Bà Hàng Dầu sau ngày giỗ của ông.
Tôn tạo, tu bổ đền thờ Bà Hàng Dầu có ý nghĩa lịch sử to lớn, khắc ghi công lao của người đã trợ giúp nghĩa quân Lam Sơn đánh đuổi giặc Minh. Cũng là giáo dục truyền thống uống nước nhớ nguồn với thế hệ trẻ.

Ngai vàng của Vua với “long bào”, “long ngai” và “long hài”, tại điện Sùng Hiếu. Sau ngai vàng là bức phù điêu “cửu long quần tụ”. Ảnh: Thanh Tâm
Dự án bảo quản, tôn tạo di tích Lam Kinh vẫn đang được tiếp tục triển khai với việc phục hồi, phỏng dựng các công trình trong thời gian tới gồm: Tả vu, Hữu vu, 4 tòa Thái Miếu, đền thờ Bà Hàng Dầu, sẽ tái hiện cơ bản những công trình kiến trúc vốn có trong lịch sử để Lam Kinh tiếp tục phát huy giá trị lịch sử, nhắc nhớ công lao to lớn của vị anh hùng dân tộc Lê Lợi, là mạch nguồn lịch sử xuyên suốt, là địa chỉ đỏ giáo dục lòng yêu nước cho thế hệ mai sau.