Chuyển đổi số để cải thiện chất lượng không khí
Tháng 11/2022, USAID (Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ) chính thức khởi động Dự án Giảm thiểu ô nhiễm ở Việt Nam. Dự án được thực hiện trong 5 năm với kinh phí dự kiến là 11,3 triệu đô la, do Winrock International - đối tác thực hiện dự án của USAID phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường thực hiện.

TS. Hoàng Dương Tùng - Chủ tịch Mạng lưới không khí sạch Việt Nam. Ảnh: Kiên Trung.
Mục tiêu dự án nhằm hỗ trợ Việt Nam trong nỗ lực giải quyết những thách thức về ô nhiễm môi trường tại các khu vực mục tiêu thông qua cách tiếp cận tác động tập thể; thúc đẩy sáng kiến địa phương và tăng cường năng lực của các đối tác để xây dựng mạng lưới địa phương nhằm giảm thiểu các vấn đề ô nhiễm trọng điểm tại Việt Nam. Đây là một trong những động thái tích cực để cải thiện chất lượng môi trường không khí.
Cùng với đó, chúng ta cũng có phương án dùng viễn thám để kiểm soát chất lượng môi trường không khí; thiết bị drone, sensor giám sát các vụ việc đốt rơm rạ, đốt rác thải… gây ô nhiễm môi trường.
TS. Hoàng Dương Tùng - Chủ tịch Mạng lưới không khí sạch Việt Nam cho biết, cách đây mấy năm, có doanh nghiệp tư nhân lắp đặt hệ thống PAMAIR ở cả nông thôn và thành thị để giám sát, tìm hiểu nguyên nhân chất lượng không khí và mới kết luận được một điều: việc đốt rơm rạ là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng tới chất lượng không khí. Khi xảy ra việc đốt rơm rạ, lập tức các chỉ số chất lượng không khí đã thay đổi theo chiều hướng đi xuống, đốt ở vùng này thì vùng khác bị ảnh hưởng.
Bây giờ, hệ thống PAMAIR gần như không tồn tại nữa vì không có nguồn duy trì. Sau đó có dự án của Mỹ làm việc với Tổng cục Môi trường (thuộc Bộ TN-MT cũ) triển khai sensor đó ở một số địa phương như Hải Dương, Hà Nội nhằm thu thập các số liệu về không khí. Việc thử nghiệm sensor đã triển khai làm rồi nhưng chưa hiệu quả.
Còn phương án sử dụng drone (thiết bị không người lái) để phát hiện các sự cố gây ảnh hưởng chất lượng không khí cũng có những cản trở: muốn bay drone cũng không dễ, phải có giấy phép bay, phải xin phép các đơn vị chức năng cấp phép. Thứ hai, ngồi một chỗ điều khiển thiết bị cũng không bao quát được hết. Nó chỉ có tác dụng phát hiện được ở phạm vi cuối nguồn, nghĩa là sự việc/sự cố đã xảy ra, hành vi đã đốt rồi mới phát hiện ra.
Thiết lập thị trường tiêu thụ rơm rạ cho nông dân
Theo TS. Hoàng Dương Tùng, điều quan trọng nhất là cần kiểm soát để người dân đừng đốt rơm rạ, tức là cần các phương án phòng ngừa từ sớm, từ xa.
“Tôi nghĩ cách làm bền vững là phải làm thế nào hỗ trợ nông dân. Làm sao để tạo được một thị trường để người nông dân nhận thức được việc dừng đốt rơm rạ, thu gom rơm rạ là có lợi, có đơn vị/thị trường thu mua…, có như thế người ta mới làm. Nếu không có lợi mà lại tốn thêm kinh phí cho việc thu gom phụ phẩm nông nghiệp thì không ai làm cả.

Canh tác hữu cơ, nông nghiệp xanh, bền vững có mối liên hệ mật thiết đối với bảo vệ môi trường và chất lượng không khí. Ảnh: Kiên Trung.

Quản lý phụ phẩm nông nghiệp sẽ góp phần nâng cao chất lượng không khí. Ảnh: Kiên Trung.
Chúng tôi đã từng làm việc với một huyện ngoại thành của Hà Nội - huyện Thanh Oai (trước đây) để tính bài toán cụ thể: với diện tích canh tác cấy lúa là ngần này, huyện sẽ hỗ trợ bao nhiêu chế phẩm sinh học tương ứng cho người dân. Tính ra không đáng bao nhiêu cả. Phải coi việc đó là việc của chính quyền chứ không phải việc của người nông dân, đừng nghĩ người dân bỏ tiền mua chế phẩm sinh học về để xử lý rơm rạ.
Chúng tôi đã đề xuất các xã/thôn lập nhóm zalo để tổng hợp, nắm bắt thông tin những hộ trồng lúa ngay từ đầu vụ (có trồng hay không, bao nhiêu sào, cần gì để hỗ trợ canh tác, thu hoạch, thu gom rơm rạ ....), sau đó trung tâm khuyến nông phải thường xuyên hỗ trợ về thông tin, giải pháp, nắm bắt tình hình trong suốt quá trình canh tác cho đến khi thu gom xong rơm rạ. Họ cũng là người đề xuất với chính quyền các giải pháp về kỹ thuật, tổ chức thu gom, hỗ trợ các chế phẩm vi sinh, thị trường ... Tóm lại là nhiều giải pháp chủ động để hỗ trợ ngay từ đầu chứ không chỉ thuần túy dùng sensor hay drone để kiểm tra khi sự việc đã xảy ra. Đây cũng là chuyển đổi số.
“Cái mà tôi muốn nhấn mạnh là phải chuyển đổi tư duy từ bị động (để xảy ra rồi mới giải quyết) sang chủ động, cảnh báo từ sớm, từ xa với sự hỗ trợ của các công cụ hiện đại. Như thế sẽ tốt hơn nhiều đối với quản lý nông nghiệp, doanh nghiệp và với người dân” - TS. Hoàng Dương Tùng nói.
Cũng theo ông Hoàng Dương Tùng, giải pháp chủ động thu gom cũng có thể thực hiện bằng cách chính quyền đứng ra tổ chức thuê máy móc thu gom rơm rạ, sau đó sẽ lấy tiền thu được từ việc bán rơm rạ này để bù vào kinh phí đi thuê máy móc, thiết bị.

Nhiều địa phương, người nông dân đã thu gom rơm rạ để bán cho các đơn vị, cơ sở chăn nuôi gia súc, sản xuất nấm rơm... Ảnh: Kiên Trung.

Không chỉ giúp hạn chế phụ phẩm nông nghiệp, tận thu phụ phẩm rơm rạ có đa giá trị, giúp bảo vệ môi trường. Ảnh: Kiên Trung.
Trung tâm khuyến nông có vai trò rất quan trọng trong việc kiểm soát, quản lý và triển khai việc thu gom, xử lý các phụ phẩm nông nghiệp. Chúng ta cần có một hệ thống thông tin, số liệu… thì từ đó mới xây dựng được hệ thống chính sách được. Lúc đó, tôi nghĩ sẽ hoàn toàn kiểm soát, quản lý được. Đó là những giải pháp thực sự bền vững, hiệu quả”.
Việc tái sử dụng phụ phẩm nông nghiệp mang lại đa giá trị, giúp tăng sức khỏe đất từ đó tăng năng suất, thúc đẩy cơ giới hóa và bảo vệ môi trường. Cơ quan quản lý khi nắm bắt được người nông dân mùa vụ này sẽ trồng loại cây gì từ đó sẽ có phương án chủ động để thu gom, xử lý phụ phẩm từ mùa vụ đó. Trong thời đại ngày nay, chúng ta hoàn toàn có thể thực hiện được bởi đã có rất nhiều hệ thống công cụ hỗ trợ.
Ông Tùng chia sẻ: "Tôi nhớ có vụ việc nhà máy sản xuất sữa thải nước thải ra cánh đồng khiến lúa tốt quá, cứ xanh mãi mà không ra bông, gọi là hiện tượng “lốp lá”. Nông dân khiếu kiện, phản ánh, chúng tôi xuống cùng làm việc với 2 bên. Sau đó, nhà máy đã đền bù toàn bộ hoa lợi vụ mùa đó cho những gia đình bị ảnh hưởng, và số tiền đền bù không đáng bao nhiêu cả.
Qua câu chuyện này tôi muốn nói, việc hỗ trợ để người dân không đốt rơm rạ gây ảnh hưởng tới công việc của đơn vị khác, thực ra mức kinh phí là rất nhỏ. Mình không nên nặng nề, mà nên cho rằng đó cũng là trách nhiệm của doanh nghiệp. Môi trường là môi trường chung, tất cả mọi người cùng có trách nhiệm, cùng chung tay. Phải nắm giữ được các số liệu, thông tin, từ số ô, thửa, diện tích canh tác; giống cây trồng; bàn bạc với nông dân sau thu hoạch họ sẽ xử lý như thế nào đối với phụ phẩm nông nghiệp. Lên được một phương án như thế sẽ quản lý, xử lý được vấn đề chất thải đầu ra của ngành nông nghiệp.
Sensor, drone… chỉ mang tính hậu kiểm, không phải là chủ động để kiểm soát nguồn phát thải từ đầu, mặc dù nó cũng cần thiết. Trong bộ tiêu chí để đánh giá các xã đạt nông thôn mới cũng có tiêu chí về môi trường và bảo vệ môi trường. Với mô hình chính quyền địa phương 2 cấp vừa triển khai, đơn vị cấp xã (mới) cần thiết triển khai đảm bảo tiêu chí này hơn, có các chế tài để xử lý mạnh tay các vi phạm môi trường" - ông Tùng nhận định.